CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN NĂM A
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm A xoay quanh một chủ đề nồng cốt: “con người mong ước được gặp gỡ Thiên Chúa”.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I phác họa chân dung của Đức Khôn Ngoan bằng những đường nét nêu bật những phẩm tính của Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người mong ước được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô xác tín rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, đã được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả là một người Do thái mộ đạo sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Thành phố này đã trở thành thủ đô của nền văn hóa Hy-lạp, nhưng cũng là một trong những cái nôi sinh hoạt của kiều bào Do thái.
Lý do mà tác giả, một người Do thái rất gắn bó với đức tin của cha ông, viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn minh Hy-lạp rực rỡ đồng hóa, một nền văn minh sản sinh nhiều trường phái triết học, được thăng tiến bởi những tiến bộ khoa học, được tiếp xúc bởi những lập luận lý trí và những trào lưu thần bí. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Nhờ hiểu biết triết học Hy-lạp, biết vận dụng ngôn ngữ Hy-lạp tinh tế, thuận lợi cho sự trừu tượng hóa hơn ngôn ngữ Híp-ri, tác giả diễn tả tốt hơn những thực tại siêu hình. Sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm, ca ngợi Đức Khôn Ngoan (ch. 6-10), được viết bằng văn xuôi có vần điệu. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống của các sách thuộc truyền thống Minh Triết, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rắc.
Trong đoạn trích hôm nay, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị với bốn đường nét nêu bật những phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
1.Đức Khôn Ngoan hiện thân của Thiên Chúa:
Đức Khôn Ngoan tham dự vào ánh sáng đời đời: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn, thánh Gioan phác họa Ngôi Lời Thiên Chúa theo cùng một cách thức như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9)
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho người ấy được chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan
thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Chúng ta rất gần với sự đồng nhất của Đức Khôn Ngoan với Thiên Chúa, như vế tiếp theo cho thấy:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Ngôn sứ I-sai-a cũng diễn tả Đức Chúa theo cách thức như vậy:
“Hãy tìm kiếm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55: 6).
2.Đức Khôn Ngoan đi bước trước:
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đi bước trước:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai miệt mài tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, ngồi ngay trước cửa nhà. Một hình ảnh gợi lên mầu nhiệm của những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi này trước cửa nhà” (6: 14).
Chính cũng trong Tin Mừng Gioan mà mầu nhiệm về việc Thiên Chúa đi bước trước được gợi lên rõ ràng nhất, đặc biệt ở nơi dung mạo của người Mục Tử nhân lành (Ga 10: 1-6). Chúng ta cũng gặp thấy lời tuyên bố của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6: 65).
3.Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện tri thức:
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo.
Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Chúng ta cũng đọc thấy lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan như vậy trong sách Châm Ngôn:
“Ai nghe ta sẽ sống an toàn,
được yên ổn, chẳng sợ chi tai họa” (Cn 1: 33).
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng cất tiếng mời gọi như vậy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 28-20).
4.Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai mến mộ mình:
Đức Khôn Ngoan rảo khắp nơi tìm kiếm những ai xứng đáng với mình. Vai trò của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm các hiền nhân để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan,
thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Chân dung của Đức Khôn Ngoan được phác họa bằng những đường nét như trên gợi ra dung mạo của Thiên Chúa, Ngài khuyến khích con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài và tỏ mình ra để con người nhận biết Ngài. Trong bản văn của sách Khôn Ngoan này, Đức Khôn Ngoan là tiền thân của Ngôi Lời nhập thể.
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca này nhắc lại niềm hy vọng lớn lao của mỗi người ki-tô hữu vào cuộc phục sinh, cuộc sống mai hậu và hiệp nhất với Thiên Chúa muôn đời.
Những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã lo lắng hỏi thánh Phao-lô về những người giữa họ đã qua đời, những người này không có thể được dự phần vào ngày quang lâm của Chúa Giê-su, vì thế không được dẫn vào Nước Trời cùng với Ngài sao? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Tất cả các ki-tô hữu tiên khởi đều tin rằng cuộc quang lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào vài lời nói của Đức Giê-su. Khi loan báo vài dấu hiệu báo trước cuộc Quang Lâm của Ngài, Đức Giê-su quả quyết: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34), cho dù vào dịp này Ngài đã khẳng định: “Còn về giờ và ngày đó thì không ai biết được… chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24: 36). Mặt khác, đừng quên rằng vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái đã chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nao chờ đợi này. Chúng ta đo lường tâm trạng đầy xao xuyến của những người nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời.
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc họ nhớ nền tảng đức tin của họ: cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu được đặt trên niềm xác tín là hiệp nhất với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng chung một vận mệnh với Ngài.
1.Không ai được mất niềm hy vọng:
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”. Chắc hẳn nhiều lương dân nuôi dưỡng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như những biện luận của người Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín chưa? Họ dự kiến cuộc phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”. Chắc chắn đây không cốt là một lời chính xác (không thấy thánh Phao-lô ám chỉ lời nào của Chúa), nhưng nhìn chung là giáo huấn Tin Mừng. Thánh Phao-lô chỉ công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
2.Một niềm xác tín không lay chuyển:
Kiểu nói “chúng ta, những người đang sống” có thể được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” mang lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống sẽ không hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Đừng quá chú ý cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch với những hành động ngắn và nhanh, những thay đổi bất ngờ. Dụ ngôn này gồm có năm phần trong đó ba cảnh được sắp xếp theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
-Dẫn nhập (25: 1-4)
Cảnh 1: sự chậm trễ và giấc ngủ (25: 5).
Cành 2: Lời loan báo và kịch tính (25: 6-9).
Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
-Kết luận (25: 13)
-Dẫn Nhập (25: 1-4):
Dẫn Nhập được dùng để giới thiệu các nhân vật: các cô phù dâu sẽ tháp tùng chàng rể trong cuộc rước dâu. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Ở đây hẳn là Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của riêng mình. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô rồi cả hai được đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở đây tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn rước gồm mười cô phù dâu. Trong câu chuyện này, tác giả có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mang đèn mà thôi, vì thế cô dâu không được đề cập đến.
Ngay trong phần “Dẫn Nhập” này, tác giả cung cấp cho người đọc chìa khóa để hiểu câu chuyện. Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là khờ dại vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là khôn ngoan vì biết tiên liệu: đã mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
-Cảnh 1: Sự chậm trể và giấc ngủ (25: 5):
Bức màn sân khấu kéo lên cho thấy các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Việc họ mệt lã ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đã đến trễ hơn dự kiến. Hầu như không có một hành động nào. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là chu toàn nhiệm vụ: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền nghỉ ngơi.
-Cảnh 2: Lời loan báo và kịch tính (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vỡ diễn. Bất chợt mọi sự đều chuyển động. Một lời loan báo vang lên trong đêm đã đánh thức sự chuyển động của vỡ kịch. Tiếng la bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu chuyện đầy kịch tính. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, tiếng la đột ngột kéo bật các cô ra khỏi giấc ngủ. Những hành động xảy đến cách dồn dập. Mười cô trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Chàng rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới với chàng.
Một chi tiết thật lạ là khi năm cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã nài xin năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình; ấy vậy, năm cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu thế mà lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Để nuôi dưỡng ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến luôn cháy sáng, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Không ai có thể bắt người khác tin, cậy và mến được. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Khi trả lời “không”, các cô khôn ngoan chỉ nêu bật hậu quả của hoàn cảnh do thái độ thiếu tiên liệu, bây giờ mọi sự đã quá muộn. Bởi vậy, mỗi người tự gánh trách nhiệm về cuộc đời mình.
- Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng mới được đi vào dự tiệc cưới với chàng rể. Ba hành động nối tiếp nhau: chàng rể đến, các cô khôn ngoan được tháp tùng chàng rể và cửa đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến và xin được đi vào trong phòng tiệc. Cuộc đối thoại ngắn giữa lời cầu xin của các cô khờ dại: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, và câu trả lời của chàng rể: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”, cho thấy sự thiếu xót lúc đầu tưởng rằng chỉ một lỗi sơ xuất nhỏ vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể.
Trong dụ ngôn “Tiệc cưới” trước đó, một người trong số những người được mời vẫn không tránh khỏi bị trục xuất ra khỏi tiệc cưới vì không “mặc áo cưới” (22: 12-13); ở đây cũng thế, những người được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được dự phần vào tiệc cưới khi không chuẩn bị dầu để giữ cho đèn được cháy sáng. Do sự chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, không còn thuộc đoàn rước của chàng rể nữa. Đến đây, dụ ngôn đã trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” tượng trưng cho Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” tượng trưng cho việc chờ đợi cuộc Quang Lâm được trì hoản lâu dài, dù các ki-tô hữu đã tưởng là gần kề; đi vào phòng cưới là đi vào Nước Thiên Chúa; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su trong phần cuối của Diễn Từ Trên Núi: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7: 22-23).
-Kết luận (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra có vẻ không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây chủ yếu hệ tại ở nơi quyết định của các môn đệ là trung tín chu toàn những gì họ đã được giao phó.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông.