Suy Niệm Tuần II Phục Sinh - Năm C - Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Chủ nhật - 28/04/2019 04:38  1119
Thứ hai Tuần II Phục Sinh
Sinh ra bởi Thần Khí
Nicôđêmô, một trong những thủ lãnh người do thái, đến gặp Đức Giêsu ban đêm; ông muốn thảo luận với Ngài về ơn cứu độ. Trong số những biệt phái, cũng có một ít người cảm tình với Đức Giêsu. Có thể nói được là bất cứ ai thao thức về vấn đề ơn cứu độ; tất cả những ai đặt vấn đề về ý nghĩa tối hậu của cuộc sống.
Đức Giêsu vượt lên trên câu hỏi đặt ra; việc trao ban của Thiên Chúa luôn ở bình diện cao hơn khát vọng riêng của con người, là điều thuộc bình diện trần thế và chóng qua. Ơn cứu độ của con người chính là việc con người tham dự vào cuộc sống mai sau. Vì thế cần phải ‘tái sinh’.
Rõ ràng là vị thủ lãnh do thái cũng biết đến những tôn giáo ngoài do thái giáo, trong đó người ta thường đề cập đến vấn đề tái sinh. Trong các thủ bản Tân Ước khác, bí tích Thánh Tẩy kitô giáo được định nghĩa như là sự sinh ra một lần nữa (thư gởi Titô và thư thứ 1 của Phêrô). Đức Giêsu nêu cho thấy rằng việc sinh lại này không thuộc khả năng của con người: là sinh bởi nước và Thần Khí. Thần Khí là ơn huệ của Chúa Phục sinh ban cho cộng đoàn.
Thứ ba Tuần II Phục Sinh
Gió muốn thổi đâu thì thổi
Sinh ra bởi Thần Khí, đây chính là nguồn cội của con người. Chính là cái quyết định mức độ việc con người hiểu về chính mình, về hiện hữu của mình, về những quan điểm của mình và về cung cách sống của mình. Sinh bởi xác thịt, chỉ có thể cho chúng ta hiểu những gì thuộc thế gian. Nhưng sinh bởi Thần khí cho chúng ta có được một nhận thức mới về chính chúng ta. Con người cũ không chỉ, một cách giản đơn, trở nên tốt hơn khi được sinh lại, nhưng nó còn thủ đắc một nguồn gốc mới. Việc sinh lại là thiết yếu, Đức Giêsu quả quyết như thế. Qua điều mạc khải này, Thiên Chúa trả lời cho vấn nạn của con người về ơn cứu độ, để con người không còn một mình đi tìm lời giải đáp nữa.
Thế nhưng người ta không thể một cách giản đơn bảo rằng con người trở nên tốt hơn ngay khi tái sinh; cuộc sống của người đó có định hướng (ý nghĩa). Việc ấy cũng giống như gió; người ta không thể quy định nó theo sở thích của mình. Người ta không thể nắm bắt lấy nó, để nó thổi theo ý mình. Có điều gì đó diễn ra trong cuộc sống của người sinh bởi Thần Khí: tư tưởng và hành động của họ không thể rập theo những tiêu chuẩn của thế gian. Điều thiện mà người ấy làm không phát xuất tự mình nó.
Nhiều lúc, cũng giống như Nicôđêmô, chúng ta chỉ chấp nhận là mới mẽ nếu điều đó phù hợp theo những ý nghĩ sẵn có của chúng ta. Nếu chỉ tin những điều phù hợp với luận chứng của mình, thì niềm tin của người đó không hoàn hảo. Hãy làm như người ngư phủ: khám phá ra hướng gió thổi và giương buồm lên để đón lấy gió.
+++
Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý
Với một vài từ chính yếu thánh Luca vẽ cho ta thấy khuôn mặt lý tưởng của Hội Thánh từ thuở ban đầu, một lòng một ý với nhau.
Nhiều đoạn Tân ước khác cũng cho thấy cộng đoàn không hoàn toàn đẹp như thế, vừa có những điều đáng trân trọng nhưng cũng không thiếu những nhỏ nhen. Ta cũng gặp thấy ngay cả trong nhóm Mười Hai ngay khi Thầy còn sống giữa họ.
Tuy nhiên điều đó không làm mất đi cái cùng đích. Lời khẩn xin của Chúa ‘Lạy Cha xin cho chúng nên một’ vẫn là lời mời gọi để mỗi người cố gắng vượt lên trên những nhỏ nhen, ích kỷ để sống hiệp nhất với nhau.
Ở đây thánh Luca nhấn mạnh đến vấn đề nhu cầu vật chất mà người ta tìm cách đáp ứng nhờ tình bác ái. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự cần thiết quan tâm đến những người yếu đuối để không một ai bị hư mất. Cách thức khác nhau để sống tình huynh đệ, quan tâm đến tha nhân để đến giúp đỡ họ ngay khi họ có nhu cầu.
Tắt một lời: đây là những con tim mở rộng để đón nhận nhau và được tiếp nhận, hiểu và được thông cảm. Những khác biệt vẫn còn đó, nhưng mọi tấm lòng hòa nhịp trong một nhịp yêu thương xuất phát từ trái tim Đức Kitô: chính Ngài là điểm tựa, là trung tâm của sự hiệp nhất mà mọi người phải hướng đến, mang đến cả sự phong nhiêu cũng như những giới hạn của mình.
Lạy Chúa xin dạy con biết những nẻo đường của sự hiệp thông.
Thứ tư Tuần II Phục Sinh
Lễ Thánh Giuse Thợ
Phản ứng của dân làng Nagiarét về sự khôn ngoan của Đức Giêsu làm ta nghĩ đến chương sách Huấn Ca, trong đó đối nghịch lao động chân tay với lề luật. Sách Huấn Ca viết: dân chúng (thợ, nông dân) chú tâm đến những chuyện vật chất; còn người luật sĩ ngược lại có những tư tưởng thâm sâu, tìm kiếm những điều quan trọng và có thể tư vấn cho người ta trong việc quản trị tốt thành phố.
Dân làng Nagiarét tự hỏi: ‘Do đâu mà ông ấy khôn ngoan như thế? Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Không có học thức, văn hóa?
Rõ ràng: sự khôn ngoan của Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và Ngài đã nhấn mạnh nhiều lần về mầu nhiệm Thiên Chúa mà Ngài tỏ bày cho những kẻ bé mọn, đơn thành và giấu những người khôn ngoan và Ngài đã chỉ trích các luật sĩ là những kẻ nói mà không làm.
Đàng khác, tin mừng nhấn mạnh trên lời nói: cần biết đón nhận Lời của Thiên Chúa. Và công việc chỉ có giá trị nếu được hứng khởi từ Lời Chúa. ‘Tất cả những gì anh em làm trong lời nói cũng như hành động, hãy làm tất cả vì danh Đức Giêsu, nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha’.
Tất cả những gì mà anh em làm, đó là những việc vật chất cũng như những việc tinh thần. Tin mừng đề cao việc phục vụ chân thành, khiêm tốn, tính sẵn sàng trong yêu thương, để được liên kết với Đức Giêsu, con của bác thợ mộc, đến để phục vụ.
Phẩm giá đích thực là ở nơi việc phục vụ anh em, theo khả năng riêng, kết hợp với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hãy xét lại thang giá trị của chúng ta, để làm cho nó luôn phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa.
+++
Thiên Chúa yêu thế gian
Thiên Chúa mà đoạn văn hôm nay nói đến không có điểm chung với những vị thần linh xưa kia. Quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian. Và không chỉ thế giới do thái mà thôi, nhưng toàn thế giới. Theo thánh Gioan, quan niệm ‘thế gian’ bao gồm toàn thể tạo thành. Tình yêu của Thiên Chúa trao ban cách công bình cho cả những ai không thuộc đoàn chiên của Ngài nữa. Trong đó có cả những người chống lại sự thiện. Là thế giới trong toàn thể tiến trình tục hóa của nó, như ta đang thấy hiện nay. Và chắc rằng cũng là thế giới thời Đức Giêsu, cùng với những hệ lụy luân lý, chính trị và tôn giáo, một thế giới tìm cách tránh xa tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu, bởi lẽ không chấp nhận Thiên Chúa xen vào công việc của họ. Thánh Gioan nói rằng Thiên Chúa yêu cả những người làm điều dữ. Nếu Thiên Chúa chỉ yêu những con người tốt lành, Ngài đã tự giới hạn mình. Ngài không tránh xa kẻ dữ. Ngài không nhìn từ trời cao tất cả những điều vô vị của thế giới. Ngài còn đồng hóa mình với cái thế giới đầy sự gian ác này!
+++
Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân
Việc liên kết giữa Thánh Thần và các môn đệ của Đức Giêsu đã đặt cho các thủ lãnh đạo đời của Palestina hai nghìn năm qua không ít vấn đề. Họ bắt các tông đồ tống giam vào ngục nhưng ngày hôm sau người ta gặp thấy các ngài trong đền thờ giảng dạy dân chúng, tuy không ai mở cửa ngục và lính canh vẫn còn đó. Thánh Luca nhấn mạnh đến biến cố này như là tác động của Thánh Thần mạnh mẽ, hiệu quả và hiền hòa. Đối lại với những phản ứng bạo lực là sự giải thoát nhẹ nhàng của Thánh Thần, làm cho các vị lãnh đạo bối rối: cảm thấy mình bị thất bại, lật đổ, cách nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tín thác vào Thánh Thần để được Ngài hướng dẫn để đi tìm sự sống nơi mà, với con mắt người đời, chỉ thấy toàn chết chóc…
Thứ năm Tuần II Phục Sinh
Thánh Atanasiô
Tin mừng trình bày cách cụ thể những khó khăn của các chứng nhân đức tin: Thánh Atanasio, bốn lần bị lưu đày, buộc phải trốn chạy vì niềm tin của Ngài vào thiên tính của Đức Giêsu. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hoàn toàn vượt xa chúng ta về mọi mặt, chúng ta biết điều này trong trình thuật về việc biến hình, và chấp nhận bằng lòng tin. Nhưng trong lịch sử Hội Thánh từng có những người muốn giản lược Đức Giêsu vào trong phạm vi nhân loại, bình diện các thụ tạo. Điều này đã xảy ra thời thánh Atanasiô, với bè rối Ariô, cho rằng Đức Giêsu chỉ đơn thuần là con người, dẫu vĩ đại, thánh thiện được Thiên Chúa chọn, nhưng không phải là Con Thiên Chúa. Và nhiều người ngay cả các Giám mục và hoàng đế đã chấp nhận ý nghĩ này, vì quá dễ dàng, dễ hiểu, không đòi hỏi phải nại đến mầu nhiệm.
Thánh Atanasio đã bảo vệ chân lý đức tin này: là một mầu nhiệm có liên quan đến phần rỗi chúng ta, vì nếu Đức Giêsu không phải là Con Thiên Chúa, chúng ta không được cứu rỗi, bởi lẽ ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa. Đây là một việc làm gian truân và nặng nhọc của người tín hữu. Thật khó mà tin rằng Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian khi mà phải chịu bao bách hại. Nhưng chiến thắng nào cũng đòi hỏi chiến đấu, phải trải qua cuộc thương khó của Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm toàn thể của Đức Giêsu: mầu nhiệm của sự chết bị tiêu diệt trong sự sống lại. Người kitô hữu không ngạc nhiên nhiều khi thấy mình cũng như Đức Giêsu, bị bách hại, vì nhờ thế họ đạt đến chiến thắng của niềm tin.
Chiến thắng của niềm tin nghĩa là gì? Nghĩa là tiếp tục tin, dẫu trong những cơn bách hại, rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và thử thách ta để ta được hưởng hạnh phúc lớn lao.
+++
Ai có Chúa Con thì có sự sống
Thánh Gioan nhận ra những mối liên hệ giữa trời với đất một cách rõ ràng hơn so với những thánh sử khác viết trước Ngài. Để trình bày, Ngài đã dùng những hình thái mới của ngôn ngữ. Nói đến một thế giới trên cao: nơi Thiên Chúa ngự. Và nói đến một thế giới bên dưới: nơi con người sinh sống. Thánh Gioan biết điều này là: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài ở cùng Chúa Cha và sẽ mãi ở cùng Cha.
Đức Giêsu đến thế gian trong một giai đoạn của lịch sử. Cái chết của Ngài trên thập giá là biểu tượng cho sự hướng thượng mới. Theo cái nhìn nhân loại, thập giá là sự thất bại hoàn toàn của Đức Giêsu; cái chết dập tắt mọi dự tính của Ngài. Theo cái nhìn của Thiên Chúa, thập giá của Đức Giêsu biểu trưng chiến thắng của Thiên Chúa trên thế gian và là ơn cứu độ của chúng ta. Nếu chúng ta tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng ta đã có sự sống vĩnh cữu. Đức Giêsu là mầm giống của niềm hy vọng qua đó Thiên Chúa hoạt động trong thế gian.
Trong sự kết hiệp với Con Thiên Chúa, Đấng mạc khải và thông ban sự sống, người tín hữu có sự sống vĩnh cữu. Ai có Chúa Con thì có sự sống (1 Ga 5,12).
+++
Bấy giờ Phêrô và các tông đồ khác đáp lại rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông trêo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng cứu độ…Về những sự kiện đó chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần…Nghe vậy họ giận điên lên và muốn giết các ông
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Lời này ngày nay vẫn còn hiện thực. Trước mặt vị Thượng tế, giờ đây là một Phêrô hoàn toàn mới mẽ sau sự Phục Sinh của Đức Giêsu, đứng lên tuyên bố nhân danh các tông đồ khác, là nền tảng của sự tự do đức tin và sự nhất trí trong đời sống của các tín hữu. Phải vâng lời Thiên Chúa, cho dầu có phải đi ngược lại với người đời. Ngày nay, có nhiều kitô hữu, cho dẫu không phải vì có nguy cơ bị loại trừ hay khinh rẻ, vẫn thích chạy theo thói sống của người thời đại, nói rằng: tôi làm giống như mọi người.
Vâng lời Thiên Chúa có nghĩa là biết lựa chọn cách can đảm, không chỉ trong những lúc quan trọng nhưng còn trong những tình huống hàng ngày, trong những cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày. Thế giới ngày nay đang cần những chứng nhân đích thực, biết loan báo tin mừng bằng một cuộc sống phù hợp với điều mình rao giảng, lội ngược dòng nếu cần thiết.
Lạy Chúa xin biến con nên một chứng nhân Tin mừng khiêm nhường và can đảm, ngay cả khi đòi hỏi phải chiến thắng tính nhút nhát, sợ hãi muốn che giấu căn tính kitô hữu của con trước mặt người đời.
Thứ sáu Tuần II Phục Sinh
Lễ Thánh Philipphê Và Giacôbê
Đức Giêsu loan báo việc Ngài sắp ra đi ngay trong bữa tiệc sau cùng (Ga 13,33), làm cho Phêrô phải hỏi ngay: ‘Thưa Thầy, Thầy đi đâu’ (Ga 13,36). Sau khi tiên báo việc Phêrô chối Thầy, Đức Giêsu an ủi các tông đồ bằng cách bảo cho họ biết rằng Ngài ra đi là để dọn chỗ cho họ: ‘Thầy đi đâu, chúng con đã biết đường rồi’ (Ga 14,4). Những lời này của Đức Giêsu có hai mục đích theo suy tư của thánh sử. Trước hết nhắc đến lời giáo huấn của Đức Giêsu, đặc biệt là giới luật mới (Ga 13,34-35), chỉ cho biết đâu là con đường phải bước theo. Những lời ấy còn gợi lên những thắc mắc của Tôma. Tôma hỏi: ‘Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?’ Đức Giêsu đáp: ‘Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’ (Ga 14,5-6). Câu trả lời của Đức Giêsu một lần nữa dẫn ta vào trong mầu nhiệm con người của Ngài. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, là con đường dẫn đến Chúa Cha. Con đường duy nhất (Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy). Một con đường cá biệt. Con đường đồng hóa với mục đích vì Ngài là sự thật và là sự sống (Thánh Tôma Aquinô).
Ngài còn nói tiếp: ‘Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy’ (Ga 14,7). Biết Đức Giêsu nghĩa là biết Chúa Cha, Thiên Chúa tình yêu. Các tông đồ đã biết Chúa Cha và một cách nào đó đã thấy Người nơi Chúa Con, trong quà tặng tình yêu của Người. Câu hỏi của Philipphê và câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 14,8-10) cho biết sự kết hiệp giữa Chúa Cha và Chúa con, mật thiết trong lời nói và hành động cứu độ, tình yêu, ân ban sự sống. Công việc của Đức Giêsu làm  là cách trình bày tốt nhất cho biết về sự kết hiệp này.
Trong ba câu cuối Đức Giêsu hứa cách long trọng. Trước hết Ngài hứa cho người tin Ngài sẽ làm những việc lớn hơn việc Ngài làm nữa (Ga 14,12) và còn hứa sẽ luôn thực hiện điều người tin cầu xin Chúa Cha nhân danh Ngài (Ga 14,13-14).
+++
Tấm bánh bẻ ra
Chúng ta không thể hiểu đoạn tin mừng thuật lại phép lạ hóa bánh, và cũng không thể họp nhau để bẻ bánh, nếu chúng ta lãng quên nạn đói đang dằn vật biết bao người trên thế giới. Đói là một sự bất lực; no nê, một loại quyền lực. Chính cái đói là dấu chỉ phân biệt người chẳng có gì với người có. Sự bất bình đẳng này là một bất công. Cả người nghèo, cả người giàu là thành phần trong Giáo Hội, không được nhân nhượng cho điều bất công này. Không có giải pháp vật chất nào cho nạn đói, vì đây là một vấn nạn của con người mang tính toàn cầu nhất. Sự nghèo đói và sự đàn áp đập lên những con người đang đói nhân phẩm. Nên người ta không thể chữa lành sự thiếu thốn này bằng những tặng phẩm để xoa dịu.
Đức Giêsu loại trừ sự đói: đói của sự tha hóa thể lý, chính trị, đói của việc đánh mất nhân phẩm. Và chính vì thế mà Ngài không để dân chúng ra về trong sự đói khổ của họ nhưng kêu gọi các môn đệ chuẩn bị cho họ ăn. Sự vâng phục của các môn đệ đã mở đường cho hành động của Thiên Chúa. Đức Giêsu không muốn hành động một mình mà không có sự cộng tác của Nhóm Mười Hai. Và cuối cùng, chính Đức Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Chỉ mình Ngài mới có thể phân phát ân sủng của Ngài.
+++
Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: Hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá hủy được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.
Gamaliel vị Thầy của Phaolô, đã cho Thượng Hội đồng lời khuyên thật hay vì các vị này đang muốn chống lại quyền năng của Thánh Thần được diễn tả qua các môn đệ Đức Giêsu. Cứ để họ làm. Nếu sự việc là do Thiên Chúa sẽ có kết quả. Ngược lại sẽ chỉ là những hạt gieo trên đất khô cằn, chẳng sinh hoa quả nào, nhưng sẽ chết ngay tức khắc.
Việc can thiệp của Gamaliel cũng là một cách thế Thánh Thần dùng để cho sự sống được phát triển từ sự sống lại của Đức Giêsu, sinh ra những sự sống mới.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ Gamaliel, cũng như bất cứ một ai khác, qua mọi thời đại, chúng con nhận ra rằng sự hiện diện sống động của Chúa vẫn tồn tại nơi những con người, những biến cố, những hoàn cảnh nguy hiểm.
Thứ bảy Tuần II Phục Sinh
Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu do thái theo văn hóa Hy lạp kêu trách những tín hữu do thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên (Cv 6,1)
Thực tế sách Công vụ không có ý trình bày một cộng đoàn lý tưởng, hoàn toàn xa rời với đời thường cụ thể, nhưng chỉ cho ta một phương cách cảm hứng do tình yêu để giải quyết những vấn đề.
Trong các chương đầu ta lưu ý đến sự mọi người quan tâm đến nhau, làm giảm thiểu những bất bình đẳng ‘kinh tế’, làm sao để bảo đảm cho mọi người có cái cần thiết. Ở đây ta thấy vài người than trách vì sự thiếu thốn: một số người không hưởng được sự phân phối bình đẳng đó.
Bối cảnh cho ta thấy điều này xảy ra không do thiếu bác ái hoặc thiên vị, nhưng chỉ vì số các tín hữu gia tăng.
Phong cách sống như trong một gia đình cần phải nhường bước cho một bối cảnh có tổ chức hơn, trong đó người ta dự kiến một sự phân chia các phận vụ và vai trò khác nhau, làm sao toàn thể cộng đoàn có thể nhận được một cách tương xứng mọi nhu cầu của mình: vật chất cũng như tinh thần.
Việc chọn lựa, trong sự tôn trọng sự hiệp nhất của thân thể giáo hội, là để tránh một chủ nghĩa tinh thần trừu tượng, nơi đó chỉ có lo việc loan báo mà thôi, hoặc là chủ nghĩa duy vật tuyên bố mọi quan tâm chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của con người. Những đòi hỏi của việc loan báo, là dành riêng nhưng không một cách độc hữu cho các tông đồ, được nối kết cách hòa hợp với thực hành bác ái như là hệ quả, đó là phận vụ của các phó tế.
Sự hiệp nhất của Giáo hội và sự trung thành với lệnh truyền của Đức Kitô được bảo đảm từ sự quan tâm (được soi sáng) vào những dấu chỉ thời đại.
Lạy Chúa, xin ban cho con một lòng trung thành năng động và sáng tạo, để có thể để nhập thể vào thế giới ngày hôm nay những giá trị trường tồn của đức tin.
+++
Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh.
Chiều đến, các môn đệ Đức Giêsu quyết định quay trở lại Caphanaum, có lẽ họ cảm thấy một chút thất vọng, vì đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài đã trốn đi!
Tác giả tin mừng với ngôn ngữ biểu tượng diễn tả tâm trạng đó bằng đêm tối, biển động, gió thổi mạnh; thiên nhiên phản ánh tâm trạng của các môn đệ, một mình không có Thầy ở cùng. Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ và ngay lập tức sự tĩnh lặng và đã tới bờ. Các môn đệ hoảng sợ nhưng Đức Giêsu làm các ông yên tâm: ‘Thầy đây mà, đừng sợ! Như thế Ngài tỏ mình là đấng làm những điều phi thường: hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, đi trên mặt nước, khiến gió yên lặng…Ngài là Chúa, hiện thân và quyền năng của Thiên Chúa. Các môn đệ bắt đầu hiểu được cảm nghiệm của họ về Đức Giêsu với ánh sáng phục sinh.
Đây cũng chính là khám phá nền tảng cho ta ngày nay: Đức Giêsu vẫn còn thực hiện trong đời sống con người mỗi ngày; mỗi người nhờ Lời và Thánh Thể soi sáng, học biết nhận ra sự hiện diện năng động của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Bánh Hằng sống, xin làm cho con ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa trong đời sống mỗi ngày của con, để con cũng có thể nghe: ‘Thầy đây mà, đừng sợ!

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập162
  • Máy chủ tìm kiếm28
  • Khách viếng thăm134
  • Hôm nay18,862
  • Tháng hiện tại697,997
  • Tổng lượt truy cập52,866,945

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây