Thứ hai Tuần Thánh
Mỗi thánh sử thuật lại theo cách của mình cuộc đời và hành động của Đức Giêsu trong dịp lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Theo Gioan, tất cả những gì xảy ra trong những ngày cuối cùng này mang một giá trị tượng trưng và vượt lên trên những sự kiện thấy được. Các nhân vật chính trở thành những biểu trưng: ngay đầu tuần thương khó, Đức Giêsu làm khách trọ ở nhà Matta, Maria và Lagiarô tại Betania. Tình bạn thân thiết gắn bó mọi người; chính họ đã được báo cho biết ý nghĩa của ‘sự sống’ và ‘sự chết’ khi nói về Đức Giêsu.
Matta làm tròn bổn phận của một bà chủ nhà. Đức Giêsu đồng bàn với nhiều người. Maria làm điều kỳ chướng đối với xã hội thời đó- cả thời nay nữa: xức dầu bàn chân Đức Giêsu bằng loại dầu thơm quý giá và lấy tóc mình mà lau. Cô tôn vinh Đức Giêsu bằng cả tấm lòng trong trắng của tình yêu, không chút quan tâm đến những người có mặt ở đấy: mùi thơm lan tỏa khắp nhà.
Lời chỉ trích bề ngoài xem chừng chỉ nhắm đến việc hoang phí của cô. Nhưng, trong thực tế, người ta xấu hổ vì sự buông thả quá đáng của cô. Giuđa lên tiếng nhân danh những người bất bình. Ông muốn chia ‘ân huệ’ của Maria thành nhiều phần nhỏ, và như thế sẽ trợ giúp được nhiều mảnh đời đói khổ. Nhưng Đức Giêsu chấp nhận tính tự phát của tình yêu này, Ngài đón nhận ân huệ toàn vẹn. Chẳng phải chính Ngài cũng đang trên con đường tự hiến hoàn toàn đó sao? Qua cái chết của Ngài, Ngài cứu thế gian.
Thứ ba Tuần Thánh
Như người lính canh
Đoạn sách Isaia, Người Tôi Tớ Thiên Chúa cất tiếng, để thực hiện ơn gọi và sứ mạng của mình, phục vụ chương trình của Thiên Chúa, mưu ích cho nhân loại. ‘Này đây ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất’. Bài ca diễn tả niềm tín thác vào Thiên Chúa, đấng sẽ trả lại sự công bình cho ta. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người tin tưởng cậy trông Ngài.
Đoạn tin mừng hôm nay mở ra và khép lại với hai lời tiên báo mang sự buồn phiền: việc phản bội và chối Thầy. Nơi giữa đoạn, ta nhận ra một dấu nhấn, xem chừng ra có vẻ bên lề nhưng không kém quan trọng: ‘Lúc ấy là đêm tối’. Đêm mà Đức Giêsu đến để xua tan bóng tối, nhưng ngay bây giờ nó đang ra sức tấn công để áp đảo ánh sáng. Đêm tối của lầm lạc: Giuđa thực hiện tội phạm của mình; Phêrô vấp phạm vì sợ hãi; các kẻ khác trốn chạy. Nhưng cũng chính trong đêm tối ấy, Đức Giêsu được vinh quang, trả lại cho con người phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Việc xuất hiện đêm tối trong cuộc sống chúng ta, lúc này chỉ là một sự kiện chóng qua, một khúc dạo đầu cho ánh sáng, sẽ trở lại chiếu soi chúng ta, bởi lẽ mặt Trời công chính là Đức Kitô sẽ không bao giờ biết đến hoàng hôn. Nên người kitô hữu cần phải thực hiện vai trò ngôn sứ, nghĩa là phát ngôn viên cho Thiên Chúa, loan báo chiến thắng chung cục của tình yêu. Người ngôn sứ phải chiêm ngắm khuôn mặt của Đấng chịu đóng đinh và phải cảm nghiệm chiến thắng của Đấng Phục Sinh. Sẽ chẳng phải là kitô hữu đích thực nếu chỉ biết gieo rắc những bất hạnh, quỵ ngã trước sự dữ, hoặc tệ hại hơn nữa, là ngừng chiến đấu cho sự sáng để mọi người nhận biết mà tìm tới.
Người lính canh, nhìn đăm đăm vào đêm tối, để nhận ra ngay tia sáng đầu tiên xuất hiện ở chân trời và vực dậy niềm hy vọng của biết bao anh em: đấy chính là hình ảnh người kitô đích thực, tất cả chúng ta đều được mời gọi để thực hiện.
Thứ tư Tuần Thánh
Đức Giêsu thấy giờ của Ngài sắp đến, nên chuẩn bị ăn mừng lễ Vượt Qua. Trong bữa ăn tối, Ngài báo trước việc phản bội của Giuđa. Tác giả thánh vịnh cũng đã tiên báo: Tv 41,10 [Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con]. Dân do thái lên án Đức Giêsu và trao nộp Ngài cho người ngoại đạo. Những người thợ vườn nho, sau khi đã giết các tôi tớ chủ sai đến, cũng giết luôn đứa con của chủ. ‘Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi? Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời cho Ta’ (Mk 6,3). Giuđa bán Đức Giêsu với giá ba mươi đồng bạc. Là giá của một người nô lệ (Xh 21,32). Người ta cũng ra cùng một giá như thế đối với vị tiên tri bị truất phế (Dcr 11,12b). Và cũng cùng một giá đó Thượng Hội Đồng trả cho Giuđa để bắt nộp Đức Giêsu.
Khi những gì đã loan báo được ứng nghiệm, Kinh Thánh chấm dứt. Từ đời đời, tất cả đều hiện diện trước mặt Thiên Chúa. Hành động của con người đã được thấy trước, nhưng không phải là tiền định. Và chính vì thế mà Đức Giêsu không cất đi trách nhiệm của kẻ nộp Ngài, vì kẻ ấy đã xử dụng tự do mình cách sai lạc.
Cũng thế chúng ta có thể phản bội Đức Kitô, bán Ngài với giá rẻ mạt. Lời Chúa dạy ta, và chính Ngài mở mắt chúng ta, để chúng ta được vào số những người đồng bàn với Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua, những chi thể sống động của Giáo Hội.
Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?
Giuđa, không thể bỏ vào túi số tiền của bình dầu thơm (Mt 26,8-9), đã ‘khắc phục’ bằng việc bán Đức Giêsu với giá một người nô lệ (x. Xh 21,32): ba mươi đồng bạc. ‘Lòng ham muốn tiền bạc là cội rễ sinh ra mọi điều ác’ (1Tm 6,10). Trong cộng đoàn các môn đệ: nơi đây Ngài bị giao nộp và ngài tự hiến mình, trao ban thịt máu mình. Khi báo cho các môn đệ biết kẻ phản bội là một người trong nhóm họ, các ông rất đau lòng. Mỗi người đều bị đánh động bởi lời loan báo đó vì mỗi người đều cảm thấy kẻ phản bội ấy có thể là mình: ‘Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?’ Giuđa cũng hỏi như vậy: ‘Rápbi, chẳng lẽ con sao?’ Đối với mười một môn đệ, Đức Giêsu là Đức Chúa, còn đối với Giuđa Ngài chỉ là một vị thầy dạy.
Đức Giêsu trả lời cho Giuđa như cũng sẽ trả lời cho vị thượng tế và cho quan Philatô: ‘Chính anh nói đó’. Con người xét đoán chính mình qua mối quan hệ với Đức Kitô: ‘Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng nhờ lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án’ (Mt 12,37).
Lời than thở của Đức Giêsu về Giuđa không phải là một lời tiên tri về hình phạt cuối cùng cho kẻ bội phản, nhưng chỉ là một lời mời gọi mỗi người xét lại lương tâm mình. Chúng ta có thể chèn vào trang tin mừng này tên của mỗi người chúng ta thay vào tên của Giuđa.
Thứ năm Tuần Thánh
Di chúc của Chúa
Chỉ có một ngày, đừng để vuột mất đi sự phong phú của phụng vụ, của lời Chúa, vẻ đẹp của khuôn mặt Thiên Chúa mà Đức Giêsu bày tỏ.
Bài đọc 1 trích từ sách Xuất Hành, xem như là một điểm dừng cắt ngang hành trình của đoàn dân Thiên Chúa tiến về Đất Hứa; chương 12 sách Xuất hành thuật lại những sự kiện, những biến cố, được xem như là chỉ thị nghi lễ: diễn tả tỉ mỉ những cử chỉ cung cách phải có trong đêm ăn chiên Vượt qua. Những cử chỉ này được lập đi lập lại, nhiều lúc người ta không hiểu được ý nghĩa thâm sâu, trở nên như một hình thức cử hành bên ngoài. Nghi thức này được đọc lại cho chúng ta, như để ghi nhớ. Một nhắc nhớ được cử hành như ngày lễ kính Chúa, một kẻ niệm được cử hành từ đời này sang đời kia. ‘Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm’. Một nghi lễ, một kỷ niệm đánh dấu một khởi đầu, một nghi lễ, một kỷ niệm để sống mỗi năm như một khởi đầu mới, và như thế suốt cả cuộc sống chúng ta khởi đầu với tháng này, những ngày này, những cử chỉ này, những lời nói này…
Đoạn tin mừng: nghi lễ để kỷ niệm, không chỉ là bữa tối hay một nghĩa cử khiêm tốn (vì nếu như thế sẽ rơi vào một sự lập đi lập lại rỗng tuếch), nhưng chính là sự thương khó và cái chết của Đức Giêsu. Chúng ta họp nhau chiều nay để nói lên điều này là chúng ta muốn bắt đầu lại và trong bữa ăn tối cuối cùng Đức Giêsu đã sống cùng với các môn đệ, chúng ta nhìn nhận khởi điểm cuộc sống chúng ta, khởi điểm hy vọng của chúng ta và chúng ta ước ao sống bữa tối ấy cùng với Đức Giêsu như Ngài đã sống. Bản văn viết ‘biết giờ của Ngài đã đến…’, Đức Giêsu hoàn toàn ý thức. Đức Giêsu biết, không có ý muốn nói đến việc biết trước theo thiên tính của Ngài. Tin mừng muốn cho ta thấy sự nghiêm túc và sự tự do Đức Giêsu đối diện với cái chết, điều mà chúng ta với bản tính con người tìm cách tránh xa (đau khổ, đau đớn, cái chết), là thuộc thế giới thần linh, thuộc chương trình của Thiên Chúa. Điều xảy ra không phải là may rủi, bất ưng, vô nghĩa: đã biết trước nên không phá hủy chương trình của Thiên Chúa. Cái chết, sự phản bội, vẻ thất bại của thập giá, các môn đệ bỏ Thầy, tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Và Đức Kitô tiếp nhận tất cả cách hoàn toàn tự do. Ta cũng tin rằng Đức Giêsu đã sống bữa tối cuối cùng như một khởi đầu mới…biết rằng bữa tối này là bữa tối cuối cùng Ngài ăn uống với các môn đệ trên trần gian và do đó là khởi đầu mới, của cách thức hiện diện mới, một hiệp thông hiệp mới nơi bánh rượu được nhắc đến trong bài đọc 2 và cử chỉ phục vụ trong bài tin mừng. Không có Thánh Thể, không có Thánh lễ, nếu không có trao ban mạng sống, nếu không có tình yêu, nếu không có phục vụ anh chị em. Thật quan trọng câu đầu tiên của đoạn tin mừng hôm nay, vì thuật lại cho ta tình yêu của Thiên Chúa, cách thức mà Thiên Chúa thực hiện tình yêu. Không phải tình yêu đổi chác filein theo kiểu con người, nhưng là agape, tình yêu của Thiên Chúa: nhưng không, trọn vẹn, dứt khoát. Bánh rượu, rửa chân, giao ước mà Thiên Chúa kết giao với mỗi người chúng ta là nơi phát sinh tình yêu ấy. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian… tình yêu mà Đức Giêsu muốn thu tóm vào đó tất cả sứ vụ, lời nói và cử chỉ hành động của Ngài…Và Ngài yêu thương họ đến cùng, quy chiếu về điều đang xảy ra: rửa chân môn đệ, những tâm sự cuối cùng, giã từ, cái chết.
Anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Là bổn phận của chúng ta, nhận ra qua nghĩa cử ấy một lệnh truyền, điều kiện để yêu và phục vụ anh em là nhận ra điều Đức Giêsu đã làm cho ta. Không dễ yêu thương nhau, chúng ta chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta học nơi Đức Giêsu, đã quỳ gối như một tôi tớ trước con người, chỉ có như thế giáo hội mới có thể khởi đầu hành trình sự tự hiến của mình, vì chỉ khi phục vụ cách vô vị lợi mọi con cái của mình, giáo hội mới thực sự có uy thế. Quyền bính của giáo hội được biểu lộ và khẳng định trong việc phục vụ, nghĩa là, mức độ người ta tin vào giáo hội tỉ lệ thuận với việc giáo hội phục vụ, quỳ gối truớc mọi người nam nữ của ngày hôm nay. Để có thể cất giọng tuyên bố điều này điều nọ, giáo hội phải biết hạ mình xuống, cúi mình xuống để săn sóc, để phục vụ…Chúng ta cảm thấy đây là một bổn phận của mỗi chúng ta, như một lệnh truyền dứt khoát, bởi lẽ là di chúc Đức Giêsu trao ban.
Thứ Sáu Tuần Thánh
Thánh giá
Thứ sáu thánh không phải vì sự đau khổ của cái chết trên thập giá, nhưng chính là tình yêu cho đến cùng đã làm cho Con Thiên Chúa chết trên thập giá. Đây là tình yêu mạnh hơn sự chết vì ôm lấy cái chết và vượt lên trên bằng tình yêu. Là ngày duy nhất không cử hành thánh lễ: vị Thuợng tế cao cả, đấng trung gian giữa trời và đất, hai tay đã bị đóng đinh, bị treo lơ lững giữa đất trời. Đấng bị đóng đinh là Thiên Chúa tự lột bỏ, tự hủy mình và trao ban tất cả; do đó là Thiên Chúa của mọi người không trừ ai, Thiên Chúa cho người vô thần, cho người không có khả năng diễn tả lòng tin của mình bằng bất cứ cách nào vì họ cũng đang bị đóng đinh, nghèo đói, những nạn nhân không được bảo vệ.
Lời nói nhường chỗ cho thinh lặng chiêm ngắm. Tại Firenze, trong nội cấm tu viện thánh Mátcô có một bức họa trình bày cảnh Thánh Đomênicô thờ lạy Chúa Giêsu bị đóng đinh, do Chân Phước Angelicô vẽ.
Từ mặt đất mênh mông, phẳng lặng và khô cằn, vươn lên cây thập giá nổi bật lên nền trời xanh: Đức Kitô bị đóng đinh, oai nghiêm, rạng rỡ; khuôn mặt đẹp trong vòng hào quang, nghiêng về bên phải, đôi mắt và đôi môi hé mở. Ngài còn sống. Ngài đau khổ vì yêu nên Ngài an bình; sự đau khổ của Ngài là sự đau khổ thanh tịnh. Đấng chịu đóng đinh được giương cao cho mọi người nhìn thấy. Do đó chúng ta không thể nào tỏ vẻ dửng dưng. Dưới chân thập giá, thánh Đômênicô đang ôm lấy và hầu như âu yếm cây gỗ nhuốm máu; ngài cảm động nhìn đấng bị đóng đinh với đôi mắt đỏ hoe, chiếc trán và khuôn mặt hằn lên nếp nhăn. Kết hiệp với Đức Kitô, cũng có nghĩa là sống với Ngài trên thập giá để cứu độ loài người. Bức tranh này được treo ngay cửa vào tu viện, muốn nhắc nhớ cho mọi người rằng cộng đoàn các anh em sống cùng với Đức Giêsu đóng đinh, là để chia xẻ tình yêu và hy sinh với Ngài, và để rao giảng chỉ một mình Ngài, như thánh Phaolô viết: ‘Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, điều mà người do thái cho là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ; nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người’ (1 Cor 1,23-25).
Tất cả chúng ta đối diện với thập giá, nhưng còn hơn thế nữa, chúng ta cùng ở trên thập giá. ‘Hãy can đảm! bạn là người đang bị đóng chặt vào chiếc xe lăn. Là người thấm thía cảnh cô đơn. Hãy tin tưởng, bạn là người đang uống chén đắng của sự bị bỏ rơi. Đừng nguyền rủa, hãy lau nước mắt, bạn là người bị bạn hữu ‘đâm sau lưng’. Tin mừng viết: ‘từ mười hai giờ trưa cho đến ba giờ chiều, tối tăm bao trùm mặt đất’. Một thời gian thật dài đối với người bị đóng đinh đang hấp hối. Nhưng một ít nữa bóng tối sẽ nhường chỗ cho ánh sáng, trái đất sẽ lấy lại vẻ tinh tuyền của nó và mặt trời Phục Sinh chiếu sáng đánh tan mây mù.
Thứ Bảy Tuần Thánh
Một đêm nữa đang chờ đợi chúng ta. Là đêm dài hơn mọi đêm. Sau đêm mà chúng ta cảm thấy bất lực trước cuộc chiến nội tâm của Đức Giêsu và trước sự chọn lựa khủng khiếp tự hiến vì phần rỗi nhân loại, chúng ta sắp cử hành mẹ của mọi đêm, đêm mà sự chết không có thể giam hãm quyền lực của Thiên Chúa. Ngày thứ bảy này Giáo hội chờ đợi để có thể chạy đến mộ Chúa vào lúc tờ mờ sáng để loan báo rằng ‘Người không còn ở đây nữa, Người đã sống lại rồi!’. Một sự chờ đợi trong thinh lặng ngập tràn niềm vui. Đứng trước ngôi mộ trống, cộng đoàn các môn đệ nhớ lại các lời nói và hành động của Thầy, giờ đây được giải thích cách đúng đắn. Không chỉ có thế: còn mở rộng tầm nhìn về bên kia chân trời và nhớ lại toàn bộ lịch sử giữa Thiên Chúa và dân Israel, bằng cách tiếp nhận vào trong đời mình những chuyện kể của Thánh Kinh, tiến dần đến Đức Kitô, cái chết và sự sống lại của Người. Chúng ta tràn đầy niềm vui trong đức tin. Hôm nay Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài thật sự là Đấng Hằng Sống.
Một lời loan báo hy vọng cho con người ngày nay
Tình trạng nhiều phương diện đáng lo ngại trên thế giới dễ tạo nên một sự ngờ vực trong mọi vấn đề, một vắng bóng những lý tưởng và viễn ảnh cho tương lai, nhưng lễ Phục Sinh trình bày cho mọi người chúng ta một bảo đảm và một khả thể của một cuộc sống mới, của những viễn ảnh lý tưởng sâu xa, của một niềm hy vọng đổi mới.
Đức Kitô sống lại là con người mới và tất cả những ai hiệp thông với Người, trở nên những con người mới, có khả năng đổi mới thế giới bệnh hoạn này. Dĩ nhiên việc đổi mới này không phải là một trò ma thuật xảy ra tức thời nhờ sự can thiệp của một vị thần giải quyết mọi tình huống nan giải (Deus ex machina), nhưng là hoa quả của một sự đổi mới não trạng và viễn ảnh bắt nguồn từ trải nghiệm sống động với Đức Giêsu Kitô phục sinh, đang sống và được nhận biết như là Chúa của thế giới và của lịch sử.
Nhất là sự thay đổi được thực hiện bên trong sâu thẳm của chính chúng ta, trong tâm trí chúng ta, khi mà nhờ qua sự gắn bó của lòng tin và tham dự các bí tích, chúng ta được biến đổi trong Người và trở nên những tạo vật mới cùng với Người: chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và bước vào trong một quỹ đạo mới hướng về tha nhân và thế giới.
Trải nghiệm sự mới mẽ này không chỉ xảy ra bên trong tâm hồn chúng ta mà thôi đâu, vì nếu như thế, có nguy cơ giản lược chiều kích đức tin vào chủ nghĩa duy tâm, như thể thuộc bình diện tâm lý: ơn cứu độ của Đức Kitô phục sinh thấm sâu vào đời sống của ta và thúc đẩy con người đổi mới thế giới bằng năng lực mới xuất phát từ chính trải nghiệm mãnh liệt này.
Người kitô hữu, từ trải nghiệm của Đức Kitô có được nhờ đức tin, nhận được sự thôi thúc cộng tác cho sự canh tân toàn thế giới, tìm cách linh hoạt xã hội bằng tinh thần tin mừng.
Kinh nghiệm sự thất bại của Lôgích xem thị trường như phương dược trị bệnh cho nền kinh tế, nhắc nhớ chúng ta cần phải làm chủ những hiện tượng kinh tế bằng những giá trị đạo đức của sự công bình, trong sáng, liên đới; thiếu những giá trị ấy, xã hội chúng ta sẽ đi đến chỗ tiêu diệt. Người kitô hữu dấn thân để những giá trị này luôn được thực thi trong lãnh vực kinh tế và những kẻ gọi là ‘ma giáo’ sẽ bị lột mặt nạ và trừng phạt.
Nhờ đức tin, người kitô hữu khám phá rằng mình được kêu gọi để họp thành một đại gia đình có chung một người Cha duy nhất, dấn thân để đập tan những bức tường ngăn cách mà hàng ngày ta dựng nên đối với kẻ khác, để tạo dựng một bầu khí tiếp nhận nhau, xây dựng một nền văn minh tình thương và một xã hội trong đó mọi người đều được mời gọi cộng tác trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của từng người.
Nếu chúng ta là kitô hữu có ý thức về vẻ đẹp và tầm quan trọng của đức tin, chúng ta sẽ hành động một cách quyết liệt ngay cả trong tình cảnh Giáo hội bị chống đối, vì chúng ta cảm nhận Giáo hội là mẹ của ta và bất cứ xúc phạm nào nơi người mẹ cũng làm thương tổn những đứa con. Ý thức rằng sức mạnh của sự dữ sẽ không thắng được, chúng ta nên mạnh mẽ trong việc làm chứng cho đức tin và góp phần, với lòng trung thành với Chúa và Giáo hội, làm cho Giáo hội, mà ta là thành phần tích cực, mỗi ngày một đẹp hơn và đáng tin hơn.