CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Ý tưởng chủ đạo liên kết ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (Bài Đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (Bài Đọc II).
Is 58: 7-10
Bài Đọc I được trích từ phần thứ ba của sách I-sai-a, phần này được biên soạn vfo thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ khuyên bảo hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những kẻ khố rách áo ôm, những người đói ăn, đó là điều kiện để trở thành một con người chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.
1Cr 2: 1-5
Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy yếu đuối và sợ hãi (thánh nhân vừa mới chịu thất bại ở A-thê-na, ở đó sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân). Nhưng sự yếu đuối này bày tỏ sức mạnh của Thần Khí trong sứ mạng gian khó của ngài là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Mt 5: 13-16
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.
BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)
Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc vào thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (cuộc hồi hương khoảng năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả của nó chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ông được gọi dưới biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
1.Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái:
Giáo Hội có chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay. Quả thật, lời khuyên bảo được gởi đến những tín hữu thực hành chay tịnh và sám hối trong niềm mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Vị ngôn sứ vạch cho thấy những khổ chế này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái. Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích:
“Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?” (Is 58: 7)
2. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”:
Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Cận Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của cuộc sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng.
“Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành” (58: 8a)
Đây sẽ là một ngày mới, một cuộc tái sinh thực sự không chỉ về phương diện luân lý nhưng còn cả về thể xác nữa vì sức lực sẽ được phục hồi mau chóng.
3. “Đức Công chính ngươi sẽ mở đường phía trước”:
“Đức công chính sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (58: 8b)
Trong vế thứ nhất của câu này, từ Híp-ri được dịch “đức công chính”, theo văn mạch cũng có nghĩa “chiến thắng”. Chắc chắn sắc thái ngữ nghĩa này phải được hiểu ở đây. Đức công chính mà người tín hữu thực hành được sánh ví với những chiến lợi phẩm sẽ mở đường phía trước người chiến thắng.
Vế thứ hai được dịch sát chữ: “Vinh Quang Thiên Chúa sẽ là hậu quân của ngươi”. Đây là hình ảnh của đám rước khải hoàn.
4. Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả:
Nhịp tăng dần của nhà thơ còn đi xa hơn khi tác giả khẳng định rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả người thực hành đức ái. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính.
“Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!” (58: 9)
Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ bác ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm. Sự rực sáng của thiện nhân chẳng khác nào sự chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa:
“Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thỏa lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (58: 10).
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)
Bản văn này được trích ngay liền sau bản văn mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật tuần trước và được định vị vào trong cùng một hàng lập luận.
1.Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối:
Thánh Phao-lô tiếp tục biện luận của mình về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.
Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu đuối của ngài, sự bé nhỏ của những phương tiện ngài sử dụng và ảnh hưởng của lời ngài rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).
Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là một thành ngữ. Chúng ta gặp lại thành ngữ này trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài, ông Ti-tô: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15). Đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng, dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương do việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn; những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy; mới đây, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na.
2.Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na:
Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó thánh nhân đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, thánh nhân đã không được hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dễ dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bởi những lời lẽ hùng biện. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác. Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và cách hành xử khiêm hạ của mình.
Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện, vì lẽ thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân, vì lẽ thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ khi áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra cư xử Tin Mừng như một sự chọn lựa khôn ngoan hay lời dạy của nhà hùng biện.
TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)
Bản văn này tiếp liền ngay sau sứ điệp về các Mối Phúc. Chính khi thực hành các Mối Phúc mà các môn đệ sẽ là “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian”.
Hai dụ ngôn này là hai cách khác nhau diễn tả cùng một thực tại: trước hết là những môn đệ, và sau họ là những Ki-tô hữu, phải đóng một vai trò cần thiết trong xã hội như “muối” hay “ánh sáng”. Hai hình ảnh muối và ánh sáng này phối hợp với nhau theo từng chi tiết, được mượn ở cuộc sống thường ngày như Đức Giê-su thích làm như vậy.
1.Muối cho đời:
Dân Pa-lét-tin không dùng muối được khai thác từ biển, nhưng từ đất mà họ tìm thấy ở những vùng phụ cận Biển Chết, ơ đó khối muối to lớn trải dài sáu cây số, trộn lẫn đất sét và thạch cao. Họ vất bỏ những gì không dùng được dọc theo những con đường khách bộ hành dẫm đạp lên: “Muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lạ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5: 14).
Muối thêm vị mặn và làm thanh sạch thức ăn; ngoài ra, muối còn bảo quản thức ăn; vì thế, muối biểu tượng tính bền vững của hiệp ước, tức “muối Giao Ước”. Thánh Mác-cô gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9: 50). Dâng hiến “bánh và muối”, chính là đề nghị tình bạn, ký kết một giao ước. Sách Dân Số 18: 19 nói về “giao ước muối” để nói về tính bền vững của giao ước. Đức tính nào trong số những đức tính của muối này Chúa Giê-su ám chỉ đến? Khó mà biết được; nhưng rõ ràng Đức Giê-su nghĩ đến khía cạnh tiểu số của những người Ki-tô hữu. Trong đống bột nhân loại bao la, những Ki-tô hữu phải là một nhúm muối thêm gia vị và làm thanh sạch, đem lại vị mặn của Thiên Chúa. Họ là những sứ giả của Tin Mừng không xuất phát từ thế giới này. Họ là những phu trạm của sự khôn ngoan Thiên Chúa đang hoạt động ở lòng nhân loại. Bản văn Hy-lạp hướng đến lối giải thích này: “Nếu muối trở nên điên khùng, thì hỏi lấy gì muối nó cho mặn lại”, điều này khiến nghĩ đến ý nghĩa được rút ra từ hình ảnh của muối: muối cho sự khôn ngoan.
2.Ánh sáng cho trần gian:
Sau này, Chúa Giê-su sẽ công bố mình là “ánh sáng thế gian”; nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban phẩm chất này cho các môn đệ Ngài: “Chính anh em là ánh sáng thế gian”. Khi nói “Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được”, xem ra vào lúc này Đức Giê-su đưa tay chỉ một thành xây trên một ngọn đồi xứ Ga-li-lê, mà những ngôi nhà sơn trắng đập vào mắt và được ánh mặt trời chiếu sáng. Người ta nghĩ đến thành Safed xây ở độ cao 1050 mét, được nhìn thấy từ thành Ca-phác-na-um.
“Ánh sáng thế gian” là diễn ngữ Kinh Thánh. Các ngôn sứ đã nhắc nhở dân Ít-ra-en về sứ mạng mà họ phải thực hiện, đó là “ánh sáng cho muôn dân muôn nước”, làm chứng về một Thiên Chúa chân thật “cho đến tận những hải đảo xa xăm”, tức là “cho đến tận cùng thế giới”. Từ nay vai trò này được chuyển sang cho Giáo Hội: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mắt thiên hạ”. Đây không phải là vai trò phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài; nhưng Ngài đòi hỏi họ phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt lành họ làm. Giáo Huấn của Ngài gặp lại giáo huấn của vị ngôn sứ: những hành động của thiện nhân bừng lên ánh sáng chẳng khác nào hừng đông xuất hiện. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài.