PARAKLETOS, CHÚA THÁNH THẦN
Thánh Gioan để lại cho Hội thánh 5 bản văn vô cùng quý giá về Chúa Thánh Thần.
* Bản văn thứ nhất (Ga 14,16): Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Ta sẽ xin (sẽ khẩn nài) với Cha, và Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos), để Ngài ở với các ngươi luôn mãi”
* Bản văn thứ hai (14,26): “Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) , Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với các ngươi".
* Bản văn thứ ba (15, 26): “Khi Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta".
* Bản văn thứ tư (16, 7-8) : “... vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) không đến với các ngươi ; còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. Và Ngài đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử".
* Bản văn thứ năm (Ga 16, 13) : “Song khi nào Ngài đến, vì là Thần Khí Sự Thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật” (Bản văn không nêu đích danh Paraklêtos, nhưng sử dụng đại danh từ Ekeinos = Ngài).
1.Đấng Bầu Chữa ở với các ngươi luôn mãi ! (Ga 14, 16)
Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Ta sẽ xin (sẽ khẩn nài) với Cha, và Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos), để Ngài ở với các ngươi luôn mãi” (Ga 14,16):
Đoạn văn nầy giới thiệu Chúa Thánh Thần hiện diện ở giữa các môn đệ như Đấng An ủi (Consolator).
Điểm đáng lưu ý ở đây là Chúa Giêsu giới thiệu Chúa Thánh Thần trong tư cách một Đấng Paraklêtos khác ; như vậy phải hiểu là các môn đệ đã có một Đấng Paraklêtos rồi, Đấng nầy được thư thứ nhất Gioan chỉ rõ là chính Đức Giêsu : “Hỡi anh em, những con thơ bé, tôi viết điều nầy để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai trót phạm tội, thì này, ta có Đấng Bầu chữa (Paraklêtos) nơi Cha, là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công chính” (1 Ga 2, 1). Chúa Giêsu đã xuất hiện trong tư cách là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc loài người, và Ngài thể hiện tư cách đó đối với các môn đệ dưới hoạt động của một Đấng Paraklêtos. Từ trước tới nay, chúng ta vẫn thường hiểu Đấng Paraklêtos chỉ về Chúa Thánh Thần, nhưng trong mạch văn này, Đấng Paraklêtos phải hiểu về chính Chúa Giêsu, Đấng an ủi, phù trợ, bảo vệ và hướng dẫn các môn đệ; nói tắt, tất cả những hoạt động mà sau này Chúa Thánh Thần sẽ làm thì Chúa Giêsu đã làm trước. Như vậy, rõ ràng bao lâu còn hiện diện nơi trần gian với các môn đệ, thì Chúa Giêsu đóng vai Đấng Paraklêtos. Ngài không chịu để mất một người nào. Ngài luôn luôn bảo vệ môn đệ [xt. Câu chuyện tại vườn Cây Dầu trong Ga 18, 1t, như xưa kia Môsê bảo vệ Dân Chúa trong hành trình sa mạc, trước mặt người đời và trước toà Thiên Chúa (Đấng chuyển cầu), x. Xh 32, 11. 30 : dù chính mình không chạy theo ngẫu tượng, không phạm tội như đoàn dân trong cuộc hành trình sa mạc, nhưng mỗi khi đến trước mặt Thiên Chúa, Môsê không bao giờ cáo tội anh em mình...]. Giờ đây, vào lúc sắp ra đi, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về Đấng tiếp nối Ngài là Đấng Paraklêtos khác, Đấng sẽ thay thế Ngài, mặc lấy tâm tình của Ngài. Đấng Paraklêtos khác là Đấng "Alter-ego" của Đức Giêsu sẽ hoàn toàn trung thành với sứ mạng của Ngài. Đấng Paraklêtos khác ấy là Đấng luôn ở với các môn đệ, tương tự như Đức Giêsu yêu các môn đệ cho đến cùng (x. Ga 13, 1). Điều này bù đắp cho việc Đức Giêsu sắp ra đi. Đấng Paraklêtos là Thần Khí Sự Thật, là Đấng mạc khải Chúa Giêsu. Sự thật trong Gioan là chính Chúa Giêsu, mầu nhiệm Con Thiên Chúa trong vai trò cứu thế. Mầu nhiệm Sự Thật hướng tới hai đối tượng : các môn đệ và thế gian. Thế gian không thể lãnh nhận Thánh Thần vì thế gian không thấy và không biết Chúa Giêsu : “Ví mọi sự có trong thế gian – đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu hãnh về của cải - (các điều ấy) không do tự Cha, nhưng là do tự thế gian mà có “ (x. 1 Ga 2, 16. Thế gian chỉ coi là thật điều nó chạm tới và hưởng thụ, nên vô phương lãnh hội mạc khải của Chúa Giêsu (Ga 1, 10 ; 8, 23...). Do đó, thế gian coi là hư ảo điều Thiên Chúa thông ban cho con người như mầu nhiệm Thiên Chúa, ân sủng, đức tin, lời hứa sự sống đời đời... Đối ngược lại với thế gian, các môn đệ của Chúa Giêsu được Thần Khí Sự Thật tác động nên mới có thể biết và lãnh hội mầu nhiệm Chúa Giêsu. Người môn đệ của Chúa Giêsu không thể yêu mến Chúa Giêsu, nếu không có Thần Khí Sự Thật.
2. Đấng Bầu Chữa sẽ dạy các ngươi mọi sự (Ga 14, 26)
"Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) , Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với các ngươi" (Ga 14, 26).
Đấng Paraklêtos là Vị Thầy, là Tôn Sư !
Gợi lên hai thời kỳ của Mạc Khải : - thời Chúa Giêsu ở với các môn đệ ; - thời Chúa Giêsu ra đi, để lại cho Thánh Thần tiếp tục hiện diện. Trong thời kỳ sau, Thánh Thần với nhiệm vụ Thầy Dạy, tôn vinh Chúa Giêsu và làm vinh danh Chúa Cha. Có hai động từ nói về hoạt động của Thánh Thần trong lãnh vực nầy ; đó là dạy và nhắc bảo : " Chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại điều Ta đã nói với các ngươi“ (Ga. 14, 26). Có lẽ đây là một trong các đỉnh cao của Tin Mừng : sứ mạng giảng dạy của Chúa Giêsu ở trần thế chấm dứt, nhường chỗ cho hoạt động giảng dạy của Chúa Thánh Thần, vị Thầy nội tâm. Thực vậy, cho đến nay, Chúa Giêsu là Đấng giảng dạy về Thiên Chúa trong Đền Thờ, nơi tiêu biểu của Mạc Khải (x. Ga 6, 59 ; 7, 14 ; 18, 20). Từ nay, Thánh Thần thay Ngài để giảng dạy bằng cách tiếp nối sứ mạng và nội dung mạc khải của Chúa Giêsu qua việc nhắc nhớ, giúp đào sâu Lời Chúa để các môn đệ hiểu tường tận về mầu nhiệm cứu độ. Thánh Thần trở nên Vị Tôn sư, vị Thầy nội tâm. Sự hiện diện của Ngài để thực hiện một cách triệt để điều mà các Ngôn sứ Giêrêmia và Edêkiel đã tiên báo khi đề cập đến Giao Ưóc mới : "Này sẽ đến những ngày … Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là Dân của Ta. Chúng sẽ không còn mỗi người sẽ dạy bảo nhau, mỗi người phải nói với anh em mình : Hãy biết Giavê. Vì hết thảy chúng đều biết Ta ….“ (Gr 31, 31-34); "Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới. Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống một Thần Khí mới, Ta sẽ cất tấm lòng đá khỏi thịt mình các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi tấm lòng thịt. Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần Khí của Ta. Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo luật điều của Ta“ (Ed 36, 26-27). Thần khí mới chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Giới luật nội tâm nơi Ngôn sứ Giêrêmia chính là Thần Khí của Thiên Chúa nơi Ngôn sứ Edêkiel. Điều đó có nghĩa là, trong Giao Ước cũ,Thiên Chúa đã ban Luật của Người cho Dân ; còn trong Giao Ước mới, Thiên Chúa ban chính Thần Khí của Người cho Dân, để dạy bảo Dân Chúa về Lời Chúa, nội tâm hóa Lời Chúa.
3. Thần Khí Sự Thật sẽ làm chứng về Ta (Ga 15, 26)
"Khi Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta“ (Ga 15, 26).
Đấng Paraklêtos làm chứng về Chúa Giêsu !
Chủ đề " làm chứng “ là chủ đề trọng yếu trong Tin Mừng theo Thánh Gioan. Có thể nói, Tin Mừng Gioan tập trung vào việc làm chứng về Chúa Giêsu : "Người trông thấy đã làm chứng, và chứng của người là chứng xác thực, và Người biết là đã nói thật, ngõ hầu cả anh em nữa cũng tin “ (Ga 19, 35). Nguồn gốc của Thánh Thần là từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu mạc khải điều này : "Khi Đấng Bầu Chữa khác đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta " (Ga 15, 26). Lời mạc khải nầy khiến chúng ta lưu ý về nguồn gốc thần linh của Đấng Paraklêtos. Những gì Thánh Thần làm đều mang tính Thiên Chúa, thuộc lãnh vực thần thiêng. Vai trò Chúa Thánh Thần là làm chứng vì liên quan đến vụ kiện giữa Đức Giêsu và thế gian. Thế gian đã kết án người công chính, đã giết hại người vô tội. Cho nên vai trò của người làm chứng là xác nhận điều đã thấy, và giải oan cho người vô tội : Ngài bênh vực và làm cho người công chính được vinh quang. Trong vụ kiện này, thế gian vừa chạm tới Chúa Giêsu vừa đụng tới các môn đệ Người. Với sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần thì sẽ tỏ lộ rõ ràng ai đúng ai sai. Làm chứng thế nào ? - Chứng từ thường nại tới uy tín của Lời Kinh Thánh : "Đừng tưởng Ta sẽ cáo tội các ngươi nơi Cha đâu. Người cáo tội có đó rồi : Môsê, người mà các ngươi nhờ cậy. Vì nếu các ngươi tin Môsê, các ngươi đã tin Ta, vì chính về Ta mà ông đã viết. Nếu chữ viết của ông, các ngươi không tin, thì làm sao các ngươi có thể tin được lời nói của Ta“ (Ga 5, 45-47). Chúa Thánh Thần giúp cho các môn đệ nhớ lại Lời Kinh Thánh (Ga 14, 26 ; 16, 13-15), soi sáng cho họ về mối tương quan giữa hoạt động của Chúa Giêsu với Lời Kinh Thánh, vì Thánh Thần là Đấng linh hứng, là Tác Giả của Lời Kinh Thánh ; chỉ mình Ngài có thể làm sáng tỏ Lời Kinh Thánh là : "Chúa Con nói, nhưng Chúa Cha dạy “ (Filius dicebat sed Pater docebat). Điều quan trọng ở đây là Chúa Giêsu ủy thác các môn sinh của mình cho Chúa Thánh Thần và Chúa Thánh Thần sẽ hỗ trợ các môn sinh này trong sứ mạng làm chứng trước thế gian : "Và khi người ta dẫn đi giải nộp các ngươi, các ngươi đừng lo toan trước phải nói gì, nhưng điều gì ban cho các ngươi ngay giờ đó, các ngươi hãy nói, vì không phải các ngươi nói mà là Thánh Thần “ (Mc 13, 11). Họ sẽ làm chứng bằng cách trung thành với những gì đã nghe, đã thấy về Chúa Giêsu, không thêm không bớt điều gì. Thánh Thần là bảo chứng sự trung thành với kho tàng đức tin. Ngài còn dạy môn đệ tiến sâu hơn vào sự thật (Ga 16, 13).
4. Đấng Paraklêtos đến, sẽ bắt lỗi thế gian (Ga 16, 7-11)
Chúa Giêsu an ủi các môn đệ trước lúc Ngài ra đi, Ngài nói : "Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi, vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa không đến với các ngươi ; còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. Và Ngài đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử … “ (Ga 16, 7-11).
Đấng Paraklêtos chính là vị Trạng sư, vị Thẩm phán.
Khi Chúa Giêsu còn tại thế thì chưa có việc ban Thánh Thần, vì đó là do kế hoạch của Thiên Chúa. Thực vậy, khi Chúa Giêsu ra đi thì Thánh Thần được trao ban và nhờ lãnh nhận Thánh Thần mà các môn đệ làm được mọi chuyện, kể cả việc phải đối diện với thế gian. Thánh Thần bênh đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ bằng việc "Bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử". Ngài trở thành Vị Trạng Sư cho các môn đệ trước thế gian. - Về tội : Thế gian (qua người Do thái) đã kết án Chúa Giêsu dù không tìm ra chứng cứ buộc tội (x. Ga 9, 24 ; 18, 30). Đấng Paraklêtos chứng minh Chúa Giêsu vô tội. Tội ở về phía thế gian vì đã không tin và khước từ Chúa Giêsu (Ga 3, 19-21 ; 9, 41 ; 12, 37). Thế gian bảo Đức Giêsu phạm thượng và kết án Ngài trong khi Ngài đích thực là Con Thiên Chúa (Ga 19, 7) ; hơn thế nữa, thế gian còn từ khước chính Thiên Chúa. Thánh Thần vạch ra cho thấy là thế gian đã phản bội chống lại Thiên Chúa. - Về sự công chính : Khái niệm "công chính" của Tin Mừng Gioan khác với Tông đồ Phaolô. Công chính theo Phaolô nằm trong tương quan cứu độ. Theo Gioan, công chính là được tôn vinh bên Chúa Cha. Người công chính là người biết hướng về Thiên Chúa. Thế gian quả quyết mình nắm quyền quyết định về sự công chính (Ga 9, 28), Thánh Thần tỏ cho thấy thế gian đã sai lầm, vì Chúa Giêsu đã sống lại và được tôn vinh (Ga 16, 5). Về với Chúa Cha là dấu chứng Chúa Giêsu đã chiến thắng thế gian. - Về án xử : Từ khi thế gian kết án Đức Giêsu thì những tưởng rằng đã xong vụ kiện. Đức Giêsu phải chịu chết, bởi Ngài là vua Israel (Ga 19, 19). Nhưng Đấng Paraklêtos đến lật lại vụ án, cho thấy thế gian đã phạm thêm sai lầm : từ không tin đến đắc thắng và lầm lạc. Trong vụ án, Đức Giêsu đã chết, nhưng Ngài cũng đã toàn thắng, bởi Ngài đánh bại Satan là kẻ cầm đầu thế gian (x. Ga 12, 31 ; 14, 30 - con rắn trong St 3, 1 là biểu tượng quyền lực theo nghĩa chính trị, xt Ga 8, 44). Như vậy, người Dothái lên án Chúa Giêsu vì họ hành động theo sự xúi bẩy của Satan, họ hành động theo bóng tối. Thế gian đã kết án Đức Giêsu nên cũng hành xử tương tự với các môn đệ ... Đấng Paraklêtos đã lật lại vụ án Đức Giêsu thì cũng không ngừng làm như thế cho các môn đệ
5. Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật (Ga 16, 13)
"Song khi nào Ngài (Ekeinos) đến, vì là Thần Khí Sự Thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật".
Đấng Paraklêtos là Thần Khí Sự Thật.
Không chỉ hoạt động trong tư cách Đấng Phù Trợ, An ủi, Tôn sư, Chứng nhân,Trạng sư, Thẩm phán, mà Đấng Paraklêtos còn là Vị Thầy dẫn đường vào tất cả sự thật ; Ngài là Thần Khí Sự Thật. Gợi hứng từ Thánh vịnh 25, 5 : "Xin dẫn tôi theo đường sự thật của Người, xin hãy dạy tôi vì Người là thần linh tế độ cho tôi...". Sự thật chính là Lề Luật được coi như Luật sống của Dân Chúa. Trong Thánh vịnh này, lời khẩn xin "cho tôi biết đường lối của Người, xin hãy dạy tôi" nghĩa là được am tường giáo huấn sâu sắc của Chúa. Chúa Giêsu mạc khải nhiều điều, nhưng các môn đệ chỉ hiểu được một phần (Ga 16, 12) ; còn phần lớn thì họ chưa hiểu nổi. Đấng Paraklêtos là Thần Khí Sự Thật đến để giúp đỡ, làm cho môn đệ am hiểu toàn bộ Mạc Khải. Ngài thực hiện việc này bằng cách nói (phải chăng qua tiếng nói Huấn quyền Hội Thánh), nghĩa là tiếp tục mạc khải chính giáo huấn của Chúa Giêsu, vì Ngài nói lại cho chúng ta những điều Ngài đã nghe được trong việc Chúa Cha dạy bảo Chúa Con. Như thế cho thấy có sự hiệp thông sâu xa giữa Chúa Cha - Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nguồn Mạc Khải vì thế tuôn trào luôn mãi, không khi nào vơi. Chúa Cha thông truyền mọi sự cho Chúa Con, và Chúa Thánh Thần kín múc tất cả nơi Chúa Cha và Chúa Con, để thông truyền lại cho các môn đệ. Vì vậy, Ngài hành động nhằm tôn vinh Đức Giêsu Kitô. Đây là sứ mạng tối hậu của Đấng Paraklêtos. Suốt cuộc đời trần thế, Đức Giêsu không tìm vinh quang cá nhân cho mình ; Ngài xin Chúa Cha tôn vinh Ngài : "Lạy Cha, giờ đã đến ! Xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha“ (Ga 17, 1). Chúa Cha đáp lại lời khẩn xin này bằng cách trao gửi Chúa Thánh Thần. Vinh quang Chúa Giêsu là chiếu tỏa quyền năng của Người, là làm trọn Thánh Ý Chúa Cha.
PARAKLÊTOS - THẦN KHÍ SỰ THẬT
A. NGUỔN GỐC VÀ Ý NGHĨA TỪ NGỮ : PARAKLÊTOS - THẦN KHÍ SỰ THẬT
Trong Tân Ước và kể cả toàn bộ Kinh Thánh, chỉ có năm lần từ ngữ "Paraklêtos" được gợi ra, và Thánh Gioan là tác giả duy nhất đã xử dụng từ ngữ này (Ga 14, 16. 26 ; 15, 26 ; 16, 7. 13 ; 1Ga 2, 1). Thường người ta vẫn hiểu Paraklêtos là tên riêng chỉ Thánh Thần, nhưng đúng hơn đây là hoạt động của Thánh Thần : an ủi, phù trợ, bảo trợ, tôn sư, hướng đạo.
Các bản dịch Kinh Thánh dịch từ ngữ này rất khác nhau : "Đấng Bầu Chữa" (cha Nguyễn Thế Thuấn) ; "Đấng Bảo Trợ" (Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ) ; "Đấng Phù Trợ" (bản văn trong các bài đọc) ; bản văn tiếng Latinh thì gọi là "Paraclitus" ; các bản văn khác thường dùng lại tiếng "Paraclitus, Paraclet, Advocate, Counselor ...". Có lẽ đúng nhất là giữ nguyên từ "Paraklêtos", rồi tùy chỗ, tùy văn mạch mà hiểu là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu chữa, Vị Tôn Sư hay Người Hướng Dẫn... Thánh Thần được ban để, đối với những người yếu đuối thì Ngài là Đấng Bảo Trợ; đối với người cần thông hiểu thì Ngài là Vị Tôn Sư; đối với người bối rối thì luôn được Ngài bảo vệ và bênh đỡ; đối với Vai trò hay hoạt động của Chúa Thánh Thần rất đa diện. Chính vì lẽ đó mà Thánh Gioan sử dụng từ ngữ rất chuyên môn là "Paraklêtos".
Nghiên cứu nguồn gốc từ ngữ, tìm hiểu hoạt động của Đấng là Paraklêtos và đặt trong bối cảnh mạch văn của bài diễn từ cáo biệt, là bối cảnh mà Chúa Giêsu đã nói về Đấng Paraklêtos, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu không gọi đích danh là Chúa Thánh Thần mà lại chỉ nói về Thần Khí Sự Thật, hoặc có khi nói đến Thánh Thần trong chức năng của Người là Paraklêtos.
Bản văn thứ nhất (Ga 14,16): Chúa Giêsu nói với các môn đệ : "Ta sẽ xin (sẽ khẩn nài) với Cha, và Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos), để Ngài ở với các con luôn mãi". Nói đến một Đấng Bầu Chữa khác, có nghĩa là đã có một Đấng Bầu Chữa rồi.
Bản văn thứ hai (14,26):"Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos), Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với các ngươi".
Bản văn thứ ba (15,26):"Khi Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta".
Bản văn thứ tư (16,7-8) : "... vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) không đến với các ngươi ; còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. Và Ngài đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử".
Bản văn thứ năm (Ga 16,13) : "Song khi nào Ngài (Paraklêtos) đến, vì là Thần Khí Sự Thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật". Bản văn không nêu đích danh Paraklêtos , nhưng sử dụng đại danh từ Ekeinos (= Ngài).
Như thế trong Tin Mừng Gioan có bốn chỗ nêu đích danh Paraklêtos, và chỗ thứ năm dành một đại danh từ (Ekeinos) với nghĩa là Paraklêtos. Ở 4 đoạn trước, với những hoạt động rõ ràng, chúng ta thấy Chúa Giêsu xác định Thánh Thần là Paraklêtos ; nơi đoạn thứ năm, khi đi vào mầu nhiệm hiệp thông giữa Cha - Con - Thánh Thần, thì Đấng đó được ám chỉ (Ngài = Ekeinos) chứ không còn được nêu danh ; Ngài ẩn sâu như thể kéo chúng ta vào trong huyền nhiệm. Có thể nói, có một điều gì đó chúng ta như chạm tới, nhưng không cách nào nắm được, khôn phương đạt đáo. Đây là đỉnh cao hoạt động của Thánh Thần, Ngài sẽ đưa chúng ta đến chỗ am tường mọi điều về sự thật, tức là mạc khải của Thiên Chúa, để chúng ta hiểu Chúa Con là ai, Chúa Cha là ai. Vai trò của Paraklêtos ở đây là đưa chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong 1Ga 2, 1 : "Nếu ai (trong chúng ta) trót phạm tội, (thì này), ta có Đấng Bầu Chữa (Paraklêtos) nơi Cha, Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính", tác giả Gioan xác định Paraklêtos là Đức Giêsu Kitô trong tư cách là Đấng Công Chính.
Như thế Paraklêtos không phải là tên riêng của Chúa Thánh Thần cho bằng nói lên chức năng hoạt động của một Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu và Chúa Giêsu đã khẩn nài Chúa Cha ban cho các môn đệ. Đàng khác Paraklêtos cũng là Đấng mà Chúa Giêsu sai đến với chúng ta.
Theo cha Raymond E. Brown PSS : "Đấng Paraklêtos là Đấng tiếp nối sự nghiệp của Vị tiền nhiệm, ở đây Thánh Thần tiếp nối sự nghiệp của Đức Giêsu tương tự như Giôsua tiếp nối sự nghiệp của Môsê. Vì thế, Paraklêtos là Đấng "Alter-ego" của Đức Giêsu. Ngài hiện diện thay cho Đức Giêsu khi Người vắng mặt". Ta có thể thấy Đấng Paraklêtos luôn luôn có mặt, nhưng chỉ phát huy quyền của Ngài khi Đức Giêsu vắng mặt. Hệ luận của việc gọi Thánh Thần là Alter-ego của Đức Giêsu cho thấy Ngài luôn luôn làm theo ý Đức Giêsu, giúp cho người ta yêu mến Đức Giêsu, đến với Đức Giêsu và chính Ngài làm mọi sự nhân danh Đức Giêsu. Thánh Thần không là cái bóng của Đức Giêsu, nhưng là Đấng toàn quyền và đặc biệt phát huy quyền mình khi Đức Giêsu vắng mặt (Cần lưu ý, đây chỉ là cách giải thích mà các nhà chuyên môn giúp chúng ta hiểu, chứ chưa phải là tiếng nói của giáo quyền).
Theo nguyên tự, Paraklêtos là một từ Hy Lạp do tiếng Para-klêtos bởi động từ là parakalein, có nghĩa là gọi đến gần bên, gọi ai đến gần, xin điều gì, khẩn nài, khuyến dụ-an ủi. Dịch sang tiếng Latinh thường là Advocatus có nghĩa là Vị Trạng Sư, Đấng Bầu Chữa, Đấng Biện Hộ, Đấng Bảo Vệ, Đấng An ủi, Vị Cố Vấn....
Trở lại với nguồn gốc từ ngữ Paraklêtos, một trong những tác giả thời Tân Ước, ông Philon (thế kỷ II) đã sử dụng từ ngữ paraklêtos như là vị trạng sư hay người bầu chữa trong khung cảnh toà án, thuần về nghĩa pháp đình. Trong một vụ kiện liên quan đến nhân vật tên là Caius, Philon đã nêu ra ý kiến là cần đến một paraklêtos, nghĩa là một vị trạng sư để giúp cho Caius được thuận lợi hơn. Trong một phiên toà, nếu có được vị trạng sư giỏi thì không những giúp cho bị cáo được vững vàng mà có khi còn đem lại trắng án. Với chứng từ của Philon, Paraklêtos là từ ngữ chuyên môn của lãnh vực pháp đình.
Bản LXX dịch Cựu Ước, không thấy có từ paraklêtos ; chỉ có từ paraklêtores trong Is 40, 1 với nghĩa là an ủi : "Hãy an ủi, an ủi dân Ta".
Trong môi trường Dothái-giáo, đặc biệt nơi giới Rabbi, lại cũng không dịch chữ paraklêtos : họ đọc trại ra tiếng Dothái thành praqlit, praqlita nghĩa là giữ nguyên các phụ âm của paraklêtos (prqlt) để xử dụng trong các nguyên tự Do thái với nghĩa là trạng sư (khác với người cáo tội).
Rabbi Ben Jacop (khoang 150) viết : "Ai tuân giữ giới răn cách hoàn hảo thì có được một Đấng praqlit" nghĩa là ai giữ luật thì tự người đó sẽ có một đấng bầu chữa cho mình, còn ai lỗi luật thì phải đối diện với vị buộc tội và đấng đó không phải là paraklêtos. Hành vi sám hối, bác ái và đền tội là khiên thuẫn chống lại hình phạt.
Bước sang lãnh vực tôn giáo, Philon cho chúng ta những chứng cớ sống động trong tác phẩm "De exsecrationibus". Tác giả cho thấy mình có ba đấng Paraklêtos xuất hiện trước Chúa Cha : - lòng nhân hậu của Chúa Cha ; - sự thánh thiện của các tổ phụ ; - việc tu thân tích đức của mỗi người.
Tiến sang lãnh vực cử hành phụng tự, theo luật Do thái-giáo, mỗi ngày người ta sát tế hai con chiên ở đền thờ và hai con chiên này cũng được gọi là paraklêtos với nghĩa là đền tội.
Như thế trên bình diện từ ngữ, hai ý nghĩa căn bản của Paraklêtos : trạng sư và chuyển cầu (x. câu chuyện của Abraham trong St 18,16t). Ngoài ra, trong 1Ga 2,1 Đức Giêsu được gọi là Đấng Paraklêtos do việc Người đổ máu ra làm Đấng xá tội; nên Paraklêtos có nghĩa thứ ba là Đấng xoá tội con người.
Như vậy, Paraklêtos trong Phúc âm Thánh Gioan là một từ ngữ chuyên môn của riêng Tin Mừng thứ tư hàm chứa nhiều ý nghĩa phong phú, không vay mượn từ bất cứ nguồn nào (các giáo phụ vẫn gọi tác phẩm của Gioan là do Chúa Thánh Thần viết bằng ngòi bút của Gioan).
B. ĐẤNG PARAKLÊTOS VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀI
Trong văn bản Do thái, hoạt động của Đấng Paraklêtos (dịch từ tiếng Do thái nikhan) có nghĩa là an ủi. Khi đối chiếu hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vai trò Paraklêtos với các bản văn của Isaia đệ nhị. Nơi các bản văn này, Paraklêtos có nghĩa là an ủi, xoa dịu, làm nhẹ nhàng, nâng đỡ. Đàng khác, Is (43,10 và 12) nêu ra vụ kiện giữa Thiên Chúa chống lại các ngẫu thần, trong đó nhà Tiên Tri giới thiệu Israel như là chứng nhân của Thiên Chúa. Trong Gioan (16,8-11), Đấng Paraklêtos tố cáo thế gian và nại đến các môn đệ Chúa Giêsu trong vai trò chứng nhân (15,26t).
Như vậy, hành vi chuyên biệt của Đấng Paraklêtos trước hết là an ủi, thúc đẩy Dân Chúa can đãm, tin tưởng để vượt qua những khó khăn, thử thách, chướng ngại và sau nữa là biện hộ, làm chứng, chỉ dạy...
Ngài là Đấng Paraklêtos vì Ngài là Chứng Nhân đồng thời là Thầy Dạy trong vụ kiện giữa Đức Giêsu với thế gian. Ngài là Thần Khí Sự Thật (Ga 14,17 ; 15,26 ; 16,13). Các giáo phụ đã chuyển dịch từ ngữ Paraklêtos thành những hoạt động của Vị Trạng Sư (Advocatus, Tertullien) ; Đấng An ủi (Consolator, Hilario) hay theo cả hai nghĩa (Advocatus-Consolator, Augustinô), vài bản dịch Latinh cổ thêm từ ngữ : Paraclitus.
C. MẠCH VĂN DIỄN TỪ CÁO BIỆT (GA 14-16)
Khi đọc lại trong mạch văn diễn từ cáo biệt, chúng ta sẽ thấy điều này : rõ ràng Thánh Gioan đặt một bên là Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và bên kia là thế gian. Khung cảnh là Nhà Tiệc Ly sau khi Giuđa ra đi. Lúc ấy Chúa Giêsu mới nói diễn từ cáo biệt. Như vậy diễn từ cáo biệt là lời của Vị Thầy dành riêng cho các môn sinh của mình, từ thế hệ này đến thế hệ khác, khi Ngài nhìn về tương lai (và cũng là tương lai rất xa) mà trong đó vai trò chủ đạo đối với các môn đệ, với tất cả Hội Thánh, chính là Paraklêtos ... Vai trò của Chúa Thánh Thần quan trọng đến độ không thể thay thế được đối với Hội Thánh sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh cho tới lúc Ngài trở lại. Đặt trong mạch văn diễn từ cáo biệt, chúng ta hiểu rõ hơn chỗ đứng và vai trò của Chúa Thánh Thần mà Thánh Gioan gọi là Paraklêtos.
Trong diễn từ cáo biệt, điều quan trọng là vấn đề kế vị đồng thời là viễn tượng tương lai của dòng tộc, của môn phái... Tương tự như Môsê trong các chương cuối sách Thứ Luật, trong đó diễn từ thứ nhất ôn lại lịch sử của Dân Chúa, diễn từ thứ hai vừa ôn lại lịch sử vừa nói đến tương lai của toàn dân khi tiến vào Hứa Địa. Môsê nhấn mạnh đến sự trung thành của Thiên Chúa và nhắc nhở dân trung thành với Giao Ước và truyền thống của cha ông. Chúng ta cũng tìm thấy trong văn chương Dothái-giáo rất nhiều loại diễn từ cáo biệt (có thể đây là điểm đặc biệt của dân tộc Dothái vì họ tựa vào sự trường tồn của hậu duệ các tổ phụ), như "Sách về các ngày lễ" hay "Lời trối của 12 tổ phụ"... (x. St 49 về diễn từ của Giacóp).
Điểm khác biệt giữa diễn từ Do thái-giáo và diễn từ cáo biệt trong Tin Mừng Gioan là : Các diễn từ Do thái-giáo quy về Lề Luật (Torah), còn diễn từ cáo biệt trong Gioan 14-16 quy về Đức Giêsu.
Trong diễn từ của Đức Giêsu có xen lẫn lời loan báo sự trở lại của Ngài và việc ban Đấng Paraklêtos. Vậy Đức Giêsu hoạt động nhờ Đấng Paraklêtos như thế nào ?
Ðấng Paraklêtos |
|
Ðức Giêsu |
Ga 14,16 |
Do Chúa Cha ban |
Ga 3,16 |
14,16tt |
ở với, ở bên các môn đệ
ở trong các môn đệ |
13,16
14,20 |
14,17 |
thế gian không nhận, không biết
các môn đệ biết, nhận |
1,11 ; 5,43
12,48 |
14,16 |
do Chúa Cha sai đến |
5 ; 7 ; 8 ; 12 |
14,26 |
giảng dạy |
7,14 ; 8,20 ; 18,18 |
15,26 |
làm chứng |
5,31 ; 8,13 ; 18,37 |
16,8 |
bắt lỗi thế gian |
3,19 ; 9,41 ; 15,22 |
16,13 |
không tự mình nói
nhưng nghe gì thì nói ra |
7,17 ; 8,26 ... |
16,13 |
loan báo điều sẽ đến |
4,25 |
16,13 |
đưa vào tất cả sự thật |
1,17 ; 14,6 ; 18,37 |
Như thế, hoạt động của Đấng Paraklêtos rất đa dạng và tự do, cốt để hiệp thông các môn đệ với Chúa Giêsu và Chúa Cha. [Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến (apostelein), Ngài sống vâng phục và khiêm hạ ; còn Thánh Thần được trao gửi (pempein), Ngài đưa vào hiệp thông].
Qua diễn từ cáo biệt, trong bối cảnh Giuđa đã rời Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu như thể nói với các môn đệ về tương lai Hội Thánh sau này. Có ba lần Ngài nhắc đến việc Ngài sẽ ra đi (13,23 ; 14,19 ; 16,16), rồi bầu khí đầy ưu tư xao xuyến của các môn đệ vì họ sẽ phải đối diện với quyền lực thế gian, cùng với hình ảnh cây nho và cành nho trong Ga 15, càng làm cho các môn đệ thấy viễn ảnh một số trong họ sẽ tách lìa với thân cây ... Nhưng nếu được lãnh nhận Đấng Paraklêtos thì họ sẽ có được bình an, va hơn thế nữa, còn được chính Thiên Chúa ngự trong tâm hồn mình.
PARAKLETOS, HỒNG ÂN THÁNH THẦN
A.HƯỚNG THẦN HỌC CỦA GIOAN
Trong Tân Ước, hai thánh Gioan và Phaolô đề cập nhiều đến Chúa Thánh Thần với cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau.
Thánh Phaolô nhìn vào đời sống cụ thể của các tín hữu, nhờ việc sống mầu nhiệm Phục Sinh và khám phá ra hoạt động của Chúa Thánh Thần được xem như hồn của Hội Thánh. Khoa Thánh-Linh-học theo Thánh Phaolô quy chiếu về Hội Thánh. Thánh Thần là sức mạnh cho mọi hoạt động trong và của Hội Thánh.
Thánh Gioan chiêm ngắm Chúa Thánh Thần trong tương quan với con người và giáo huấn của Đức Giêsu, nghĩa là trong tương quan mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con ("Ai thấy Ta thì đã thấy Cha", Ga 14, 9 ). Khoa Thánh-Linh-học của Thánh Gioan vì thế, quy chiếu về Đức Kitô. Các học giả nghiên cứu về Thánh Gioan sau này thường nhấn mạnh đến cách diển tả liên quan đến từ ngữ: Lời - Hơi Thở. Bultmann đã có công khai sáng cho hướng đi này. Ông nói : "Thánh Thần là Sức Mạnh để thông hiểu Lời Chúa cho cộng đoàn, cũng là sức mạnh cho mọi lời rao giảng Lời Chúa trong cộng đoàn".
Cha Ignace de la Potterie SJ (+) , một giáo sư và là bậc thầy nổi tiếng ở Học Viện Kinh thánh Roma, người đã nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy về vai trò của Chúa Thánh Thần trong tương quan với mầu nhiệm của Sự Thật trong Phúc âm theo Thánh Gioan (= Mạc Khải của Thiên Chúa) đã nói : "Sứ mạng của Chúa Thánh Thần hệ tại việc nội tâm hóa Lời của Đức Giêsu và qua đó giúp các tín hữu am tường Lời Chúa".
B. TỪ NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN PNEUMA
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ngoại trừ hai trường hợp từ ngữ Pneuma được dùng trong liên hệ với tâm thần (# psykhê) của con người, các trường hợp khác, Pneuma được dùng để chỉ Thánh Thần, Thần Khí Sự Thật.
Thường có hai động từ đi kèm từ ngữ Pneuma, đó là: ban cho ( didonai ) và lĩnh nhận (lambanein) : "Vì kẻ Thiên Chúa sai, thì nói được Lời của Thiên Chúa, bởi không phải theo lường hạn mà Ngài ban Thần khí (Pneuma) cho " (didonai - Ga 3, 34); " Điều ấy, Ngài nói về Thần Khí (Pneuma) các kẻ tin vào Ngài sẽ lĩnh lấy, vì Thần Khí chưa có, bởi Đức Giêsu chưa được tôn vinh " (lambanein- Ga 7, 39) ; "Và Ta sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các ngươi luôn mãi ", Ga 14, 16) ; " Nói thế rối, Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ : "Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha ; các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ ! " (Ga. 20, 22-23). Nhờ hai động từ " ban cho " và " lĩnh nhận ", Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rõ : Thánh Thần chính là Hồng ân của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban Thánh Thần cho chúng ta và chúng ta lĩnh nhận Thánh Thần như món quà quý báu trực tiếp từ Thiên Chúa.
Ngoài ra, từ ngữ Pneuma còn gắn liền với hai động từ : gửi đến hay sai đến (pempein, apostelein)."Đấng Bầu Chữa khác, Thánh Thần Cha sẽ sai đến (pempein) nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với các ngươi" (Ga 14, 26) ; "Khi Đấng Bầu Chữa khác đến, Đấng Ta sẽ gửi đến (pempein ) từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta" (Ga 15, 26). Hai động từ "gửi đến " hoặc "sai đến " gắn liền với việc ban Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu dụng ý của Thánh Gioan muốn diễn tả sự đồng nhất giữa Đấng sai đến và Đấng được sai đến. Qua đó mầu nhiệm hiệp thông được sáng tỏ. Lãnh nhận Thánh Thần cũng là lãnh nhận Chúa Cha và Chúa Con. Khởi điểm của Đấng được sai đến là vâng phục Đấng sai mình.
C. HỔNG ÂN THÁNH THẦN
1.Tại Gò Sọ (Golgotha, Ga 19, 30. 34)
Nơi thập giá Chúa Giêsu, "mọi sự đã hoàn tất" (têlêlestai) [xt. Ga 13, 1 : Đức Giêsu biết rằng đã đến giờ Ngài qua khỏi thế gian để đến cùng Cha, (Ngài) đã yêu mến các kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài đã yêu mến họ đến cùng (eis têlos)]. Đây là đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách tuyệt hảo, hầu đem lại ơn cứu độ cho nhân loại (x. Ga 4, 32-34 ; 5, 30). Tại đây cũng gợi lên chủ đề "Giờ": Giờ Đức Giêsu rời bỏ thế gian về cùng Chúa Cha; Giờ chết và được tôn vinh. Chính vào lúc này, Thánh Gioan ghi lại : "Ngài phó thác Thần Khí (Pneuma) ". Khác hẳn với các tác giả Nhất Lãm khi nói về giờ phút cuối của Chúa Giêsu ["Ngài trút linh hồn" (Mt 27, 50) hay "Ngài tắt thở" (Mc 15, 37 ; Lc 23, 46)].
Pneuma chính là hơi thở. Hơi thở này gắn liền với Đức Giêsu. Trước hết, trong phép rửa ở sông Giođan (Ga 1, 32t) : Thần Khí như chim câu đáp xuống và lưu lại trên Đức Giêsu. Giờ đây, tại Gò Sọ, với động từ paradidonai diễn tả sự thông ban, Đức Giêsu "gục đầu xuống" trong thái độ vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối, "Ngài phó thác Thần Khí" . Những người đầu tiên được hưởng hồng ân này là các phụ nữ (Đức Maria, bà Maria vợ của Klôpa và Maria người Magđala) và người môn đệ Chúa yêu (Ga 19, 25-26).
Trong cái nhìn của Thánh Gioan, khổ nạn cũng là vinh thăng cùng với việc trao ban hơi thở (Pneuma = Thánh Thần), làm thành một tổng thể duy nhất trong Giờ của Chúa Giêsu.
Tường thuật cuộc khổ nạn được tiếp nối với lời chứng long trọng khi chiêm ngắm cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu, gợi lên hình ảnh Chiên Vượt Qua bị sát tế. Thánh Gioan nhấn mạnh "có máu và nước chảy ra" (Ga 19, 34) để làm chứng Đức Giêsu đã chết thật, đồng thời bày tỏ hiệu quả cái chết của Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (Ga 1, 29). Máu diễn tả cái chết, Nước diễn tả hậu quả ơn cứu độ mà cái chết của Ngài đem lại : đó là việc thông ban Thánh Thần.
Đức Giêsu không chỉ là Chiên Thiên Chúa, Ngài còn là Tảng Đá xây dựng Đền Thờ (x. Ga 2, 21). Thân thể Đức Giêsu trở nên nguồn suối sống động tuôn chảy Thánh Thần, đem lại ơn hoán cải cho con người (x. Ga 7, 38-39). Trong thư của mình, Thánh Gioan cũng có nói đến nước và máu : " Chính Ngài là Đấng đã đến nhờ nước và máu : Đức Giêsu Kitô, không chỉ với nước mà thôi, nhưng là với nước và máu ! Và Thần Khí là chứng nhân, vì Thần Khí là sự thật ..." (1 Ga 5, 6-7), chúng ta phải hiểu là tại đây đã hình thành tổ chức Hội Thánh.
2. Tại Nhà Tiệc Ly (Ga 20, 22)
Đức Kitô Phục Sinh hiện ra vào " ngày thứ nhất trong tuần" gợi lên cuộc tạo dựng mới. Cửa Nhà Tiệc Ly, nơi các môn đệ ở, đều đóng kín (Ga 20, 19), nhưng Đức Kitô Phục sinh đã xuất hiện ở giữa họ, để diễn tả sự tự do của Đấng Phục Sinh. Ngài đã chiến thắng sự chết và không còn bị thời gian và không gian cầm giữ.
Đến với các môn đệ Ngài nói "Bình an cho các ngươi !", và các môn đệ đều mừng rỡ. Bình an gợi lại điều Chúa Giêsu hứa ban : "Ta để lại bình an cho các ngươi ; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi ; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu ! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm" (Ga 14, 27) và niềm vui liên quan đến hồng ân các môn đệ lãnh nhận : "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : Các ngươi sẽ khóc, sẽ than ; còn thế gian sẽ mừng rỡ ; các ngươi sẽ phải ưu phiền, nhưng sự ưu phiền của các ngươi sẽ trở thành niềm vui ………. " (xt. Ga 16, 20 tt).
Trong bối cảnh này, Thánh Gioan còn lưu ý đến thương tích của Đấng đã chịu tử nạn để diễn tả nguồn ơn Thánh Thần đã được trao ban từ cái chết của Ngài, mà các thương tích đó là dấu chỉ : "Nói thế rồi, Ngài cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngài………….. Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta ; hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như ngươi cứng tin, mà như là người thành tín" (Ga 20, 20. 27).
Mạch văn nầy nêu lên ba sự kiện : sai đi truyền giáo, hồng ân Thánh Thần và việc tha tội.
a. "Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi" (Ga 20, 21). Khi đối chiếu với lời "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai chúng đến trong thế gian" (Ga 17, 18) chúng ta khám phá ra sự hiệp nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha và sứ mạng tiếp nối của các môn đệ ; ngoài ra mệnh lệnh nầy còn diễn tả nguyên nhân và hiệu quả của việc sai đi : do việc Chúa Cha sai Chúa Con, Chúa Con cũng sai các môn đệ. Khi nói lên mối tương quan này, Chúa Giêsu cho các môn đệ được thông phần sự sống mà Ngài có cùng với Chúa Cha, được thông hiểu, tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa và chia sẻ sứ mạng của Chúa Giêsu, sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha.
b. "Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ : Hãy chịu lấy Thánh Thần !" (Ga 20, 22). Thổi hơi gợi lại câu chuyện về tạo dựng ban đầu : "[Giavê] Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người đã hà hơi sống vào mũi nó và người đã thành mạng sống " (St 2, 7) và lời tiên báo việc tái tạo Dân Chúa : "Hãy tuyên sấm cho Thần khí ! Hãy tuyên sấm, hỡi con người và nói với Thần khí : Đức Chúa Giavê phán thế nầy : Từ bốn luồng gió, Thần khí hỡi, hãy đến ; hãy thổi vào các tử thi nầy, để chúng được sống" (Ed 37, 9). Hơi thở (Pneuma) của Đức Kitô Phục sinh chính là việc trao ban Thánh Thần; và việc Ngài thổi hơi trên các môn đệ là cách diển tả Ngài thực hiện cuộc tạo dựng mới.
c. "Các ngươi tha tội cho ai thì tội họ được tha ; các ngươi cầm giữ tội ai thì tội họ bị cầm giữ" (Ga 20, 23). Tội ở đây được dùng ở số nhiều, khác với cách Thánh Gioan thường dùng để nói đến tội không tin. Như vậy Hội Thánh có quyền tha mọi tội. Chúa Giêsu quả thật là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian như Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu. Giờ đây Ngài trao cho các môn đệ quyền này để họ tiếp nối sứ mạng cứu thế, và Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ thực hiện sứ mệnh này ...
Gm Giuse Võ Đức Minh