Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người nhập thể sinh bởi Đức trinh nữ Maria
Joseph Ratzinger
Giống như tất cả các bản tuyên tín quan trọng khác của Giáo hội cổ thời, kinh Tin kính Nicêa cơ bản là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Nội dung thiết yếu là một lời “đồng ý” đối với Thiên Chúa hằng sống, sự nhìn nhận Ngài là Chúa chúng ta, Đấng là khởi điểm và cùng đích của cuộc sống chúng ta. Đó là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa. Nhưng gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống có ý nghĩa gì? Danh xưng này nhằm diễn tả rằng Ngài không phải là một kết luận do suy tư của chúng ta, một suy luận mà chúng ta đang đề xuất cho người khác với kiến thức và hiểu biết chắc chắn của mình. Nếu chỉ có vậy thì vị Thiên Chúa ấy sẽ là một ý tưởng của con người, và bất cứ nỗ lực nào để nối kết cách cá vị với Ngài có lẽ là một sự dò dẫm đầy hy vọng và mong đợi, nhưng nó có thể sẽ chẳng bao giờ đưa đến điều gì chắc chắn cả.
Khi nói về Thiên Chúa hằng sống, chúng ta muốn nói đến vị Thiên Chúa tự tỏ mình cho chúng ta, Đấng từ vĩnh cửu nhìn vào thời gian và thiết lập mối tương quan với chúng ta. Chúng ta không thể định nghĩa Ngài theo bất cứ cách nào chúng ta muốn. Thiên Chúa tự “định nghĩa” chính mình và do đó Ngài ở trước, ở trên và ở giữa chúng ta với tư cách là Chúa chúng ta. Khi tự mạc khải chính mình, Thiên Chúa cho thấy chính Ngài là Chúa chúng ta, chứ không phải chỉ xuất phát từ ý tưởng của chúng ta. Vì thế, việc Thiên Chúa tự mạc khải chính mình chính là trung tâm của kinh Tin kính. Việc Tuyên xưng lịch sử của Thiên Chúa trong lòng lịch sử nhân loại không phải là rời bỏ việc tuyên xưng đức tin đơn giản vào Thiên Chúa, đúng hơn, đó là điều kiện nội tại của lời tuyên xưng ấy. Vì lý do này mà trung tâm của tất cả các kinh Tin kính là một lời “đồng ý” với Đức Giêsu Kitô: “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người sinh bởi Đức trinh nữ Maria và đã làm người”. Khi đọc tín khoản này của kinh Tin kính, chúng ta quỳ gối bởi vì giờ đây trời, bức màng bao phủ ẩn giấu Thiên Chúa, đã mở ra, và Mầu Nhiệm ngay lập tức kết nối với chúng ta. Thiên Chúa xa cách nay trở nên Chúa chúng ta, trở thành Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Bằng những cách thức mới mẻ, những bậc thầy tuyệt vời của âm nhạc Giáo hội đã vượt quá những gì mà ngôn từ có thể biểu đạt để mang đến cho tín khoản này một thanh âm qua đó cái khôn tả lại chạm đến đôi tai và trái tim của chúng ta. Những soạn giả ấy “chú giải” Mầu Nhiệm thâm nhập sâu sắc hơn bất cứ cách giải thích lý trí nào khác của chúng ta. Tuy nhiên, vì chính Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, nên chúng ta cũng phải tiếp tục cố gắng để chuyển Lời sáng tạo, nguyên thủy hằng “ở cùng Thiên Chúa” và “là Thiên Chúa” thành lời của con người để nhờ lời đó mà chúng ta có thể nghe được Lời.
1. Ngữ pháp và nội dung của tín khoản “Người đã nhập thể” trong kinh Tin kính
Nếu chúng ta bắt đầu bằng việc lắng nghe tín khoản này chỉ theo cấu trúc ngữ pháp, thì thấy rằng tín khoản có bốn chủ thể. Hai chủ thể được đề cập rõ ràng là Thánh Thần và Đức Trinh nữ Maria. Nhưng sau đó cũng lại có thêm “Người” trong câu “Người đã làm người”. Chủ thể “Người” này được gán nhiều danh xưng khác nhau trong phần trước của kinh Tin kính: Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa… Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Theo đó, chủ thể “Người” luôn bao hàm – không thể tách rời – một cái “Tôi” đi kèm là Chúa Cha, Đấng mà Người nên một trong yếu tính và do đó có thể được gọi là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa là chủ thể chính và thích hợp của lời tuyên xưng này là chính Thiên Chúa – chúng ta khó có thể mong đợi điều gì khác sau những lập luận vừa rồi. Nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa vẫn chỉ là một: Cha, Con và Thánh Thần. Giờ đây, kịch tính của lời tuyên xưng này nằm ở chỗ nó đưa ra một tuyên bố không phải về hữu thể vĩnh cửu của Thiên Chúa nhưng là về hành động mà khi xem xét kỹ hơn nó thật sự chứng tỏ là một tuyên bố về sự đau khổ, ở thể bị động.
Câu “Bởi Đức trinh nữ Maria” (ex Maria Virgine) là lời tuyên bố về hành động ấy, trong đó cả Ba Ngôi Vị Thần Linh đều can dự theo cách thế riêng của mình. Thật vậy, toàn bộ kịch tính tùy thuộc vào sợi chỉ này. Không có Đức Maria, việc Thiên Chúa bước vào lịch sử không thể đạt được mục đích như đã định. Nghĩa là những điều quan trọng nhất trong Tín biểu sẽ không thể được hiện thực hóa – Thiên Chúa luôn là một vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chứ không chỉ là một Thiên Chúa trong và cho chính Ngài. Do đó, người nữ tự xưng mình là hèn mọn, nghĩa là vô danh (Lc 1,48) ở ngay tại trung tâm của việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa hằng sống, và không thể tưởng nghĩ được điều đó nếu không có người nữ ấy. Đức Maria là thành phần trung tâm và không thể thiếu trong niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống luôn hoạt động. Ngôi Lời đã trở nên xác phàm – Ý Nghĩa vĩnh cửu làm nền tảng cho vũ trụ [Sinngrund der Welt] đã bước vào cuộc đời/cung lòng của Đức Maria. Ngôi Lời không đơn giản quan tâm tới Đức Maria từ bên ngoài, nhưng đã trở thành một tác nhân hiện diện trong Mẹ. Điều đó cần đến Đức trinh nữ để trở nên khả thể, Đức trinh nữ, đấng đã chuẩn bị toàn thể con người mình, nghĩa là sự hiện hữu thể xác của Mẹ, chính bản thân Mẹ, là nơi cư ngụ của Thiên Chúa trên trần gian. Mầu nhiệm Nhập thể đòi hỏi sự ứng thuận đón nhận. Chỉ với cách thế này mà Ngôi Lời và xác phàm mới thật sự trở nên một. Trong kết nối ấy, thánh Augustinô đã nhận định rằng, “Thiên Chúa dựng nên bạn mà không cần phải có bạn, lại không muốn cứu chuộc bạn mà không cần bạn”. “Thế giới” mà Người Con đến, “xác phàm” mà Người đảm nhận, không chỉ là một nơi hay một vật nào đó. Đúng hơn, thế giới này, xác phàm này là một con người, một trái tim rộng mở. Thư gửi tín hữu Do Thái, dựa trên Thánh vịnh, đã giải thích biến cố nhập thể như một cuộc đối thoại thật sự nội tại trong Thiên Chúa, nới đó Con thưa với Cha rằng “Cha đã chuẩn bị cho con một thân thể”. Nhưng việc chuẩn bị thân thể này lại diễn ra thông qua Đức Maria, vì Mẹ cũng thưa rằng “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã chuẩn bị cho con một thân thể… ‘Này con xin đến để thực thi ý Ngài’” (Hr 10,5-7; Tv 40,6-8). Thân xác được chuẩn bị cho Người Con thông qua Đức Maria, ở đó Mẹ trao hiến toàn thể bản thân mình cho ý muốn của Chúa Cha và do đó đặt để thân xác Mẹ theo sự sắp xếp của Thiên Chúa như lều tạm của Thánh Thần.
2. “Người đã nhập thể”: Nền tảng Kinh thánh
Để hiểu đầy đủ chiều sâu của lời tuyên xưng đức tin quan trọng này, chúng ta phải quay trở lại nguồn gốc Kinh thánh của kinh Tin kính. Khi chúng ta nghiên cứu kỹ hơn lời tuyên xưng này, có thể thấy những lời này trong kinh Tin kính là một tổng hợp từ ba bản văn Kinh thánh chính chứng thực việc nhập thể của Người Con: Mt 1,18-25; Lc 2,26-38; Ga 1,13. Dù không đi sâu vào chú giải chi tiết các bản văn này, chúng ta cũng hãy cố gắng để hiểu đôi điều về sự đóng góp độc đáo và đặc biệt của mỗi bản văn trong việc hiểu mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa.
a. Mt 1,18-25
Mátthêu viết Tin mừng với thế giới quan của người Do Thái và người Kitô hữu gốc Do Thái. Vì thế, mối bận tâm của ngài là nhấn mạnh tính liên tục giữa Cựu ước và Tân ước. Cựu ước hướng về Đức Giêsu; nơi Người những lời hứa được thành toàn. Đồng thời, mối liên hệ nội tại giữa sự mong đợi và thành toàn trở thành bằng chứng cho thấy chính Thiên Chúa thực sự đang hành động ở đây và rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ thế giới được Thiên Chúa sai đến. Quan điểm này trước hết đòi hỏi Mátthêu đưa ra lịch sử thời niên thiếu của nhân vật Giuse để cho thấy rằng Đức Giêsu là Con vua Đavít, người kế thừa được hứa ban, Đấng thiết lập triều đại Đavít vĩnh viễn và biến đổi nó thành Nước Thiên Chúa trên trần gian. Gia phả được trình bày như một phả hệ của nhà Đavít hướng đến Giuse. Trong giấc mơ, Thiên sứ gọi Giuse là “con vua Đavít” (Mt 1,20). Vì thế chính Giuse sẽ là người đặt tên cho Đức Giêsu: “đặt tên là nghi thức trang trọng của việc nhận một người làm con mình”.
Chính vì Matthêu muốn cho thấy mối liên hệ nội tại giữa lời hứa và sự việc thực hiện lời hứa, nên ngài đã đặt Đức trinh nữ Maria bên cạnh thánh Giuse. Lời Thiên Chúa hứa thông qua ngôn sứ Isaia cho vua Akhát đa nghi, vị vua đã từ chối xin Chúa ban cho một dấu lạ ngay khi quân thù đang tấn công ông, vẫn chưa được thực hiện, ý nghĩa của nó vẫn còn đóng kín. “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu. Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen [Thiên Chúa ở cùng chúng ta]” (Is 7,14). Không thể nói dấu chỉ này có ý nghĩa gì vào thời điểm lịch sử của vua Akhát – liệu nó đã được ban tặng hay bao gồm những gì. Lời hứa vượt quá thời điểm của nó. Lời hứa tiếp tục chiếu sáng trên lịch sử của Israel như một ngôi sao hy vọng hướng đến một tương lai chưa được biết tới. Đối với Mátthêu, bức màn đã được vén lên khi Đức trinh nữ Maria hạ sinh Đức Giêsu: dấu chỉ ấy nay đã được ban tặng. Đức trinh nữ, với tư cách là một trinh nữ hạ sinh bởi quyền năng Thánh Thần – Mẹ chính là dấu chỉ ấy. Hơn nữa, bên cạnh dòng dõi thứ hai của lời hứa này có một tên mới lần đầu tiên mang lại cho tên gọi Giêsu ý nghĩa và chiều sâu đầy đủ của nó. Bắt nguồn từ lời hứa trong sách ngôn sứ Isaia, việc áp dụng tên Emmanuel cho đứa trẻ cũng mở rộng phạm vi của lời hứa cho nhà Đavít. Vương quốc của trẻ này có một phạm vi rộng lớn hơn nhiều so với những gì người ta có thể mong đợi từ lời hứa với nhà Đavít: vương quốc của trẻ này là vương quốc của chính Thiên Chúa; nó thông dự vào tính phổ quát nơi quyền chủ tể của Thiên Chúa, vì nơi em, chính Thiên Chúa bước vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên, không phải đến những câu cuối cùng trong Tin mừng của mình, Matthêu mới lấy lại lời công bố với nội dung tương tự mà ngài đã nhắc đến trong trình thuật về việc thụ thai và hạ sinh của Đức Giêsu. Trong suốt cuộc đời trần thế, Đức Giêsu biết rằng Ngài bị giới hạn trong Nhà Israel và Ngài vẫn chưa được sai đến với các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, sau cái chết trên thập giá, bằng tiếng nói của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu nói rằng: “hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ … Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Trong đoạn này, giờ đây Đức Giêsu mạc khải chính Ngài là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, mà phạm vi vương quốc mới của Ngài bao gồm mọi dân tộc, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất cho mọi dân tộc. Tương tự như vậy, trong trình thuật thụ thai Đức Giêsu, Mátthêu đã thay đổi kiểu nói của ngôn sứ Isaia. Thánh sử không lặp lại cụm từ “cô ấy [người trinh nữ] sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, thay vào đó Matthêu viết: người ta sẽ gọi tên Con trẻ là Emmanuel (có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta)”. Kiếu nói “người ta” này ám chỉ đến sự hiệp thông trong tương lai giữa các tín hữu, Giáo hội sẽ gọi Đức Giêsu bằng danh xưng này. Trình thuật của Mátthêu hoàn toàn tập trung vào Đức Kitô, vì nó hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa. Theo nghĩa này, kinh Tin kính đã hiểu và trao điều đó lại cho Giáo hội. Nhưng bởi vì giờ đây Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nên những người mang lời hứa là thánh Giuse và Đức Maria cũng có một tầm quan trọng thiết yếu. Giuse biểu trưng cho sự tín trung của Thiên Chúa đối với lời hứa của Ngài dành cho Israel, trong khi Đức Maria là hiện thân cho niềm hy vọng của nhân loại. Giuse là người cha hợp pháp, nhưng Đức Maria là mẹ Đức Giêsu do chính thân xác của Mẹ: nhờ Mẹ mà Thiên Chúa đã thật sự trở nên một người trong chúng ta.
b. Lc 1,26-38
Giờ đây chúng ta hãy lướt qua trình thuật của Luca về việc thụ thai và sinh hạ Đức Giêsu. Mục đích của chúng ta không phải là giải thích bản văn vô cùng phong phú này; đúng hơn, chỉ để nắm bắt sự đóng góp đặc biệt của nó đối với kinh Tin kính. Tôi sẽ giới hạn những nhận xét của mình vào đoạn truyền tin về việc hạ sinh Đức Giêsu của Tổng lãnh Thiên thần Gabrien (Lc 1,26-38). Luca để cho mầu nhiệm Ba Ngôi tỏa sáng qua những lời của sứ thần và do đó làm cho biến cố này thành tâm điểm của thần học mà toàn bộ lịch sử thánh nhắm đến, bao gồm cả kinh Tin kính. Đứa trẻ được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, Con Đấng Tối Cao. Hơn nữa, Thánh Thần, hiện thân cho quyền năng của Đấng Tối Cao, sẽ tác động cách nhiệm mầu lên việc con trẻ được thụ thai. Do đó, Tin mừng nói về Người Con và gián tiếp nói đến Cha và Thánh Thần.
Trong đoạn Tin mừng này, Luca sử dụng từ “rợp bóng” (c.35) để miêu tả việc Thánh Thần sẽ “ngự xuống” trên Đức Maria. Bằng cách ấy, Luca muốn ám chỉ đến những trình thuật của Cựu ước về đám mây thánh ngự trên Lều Hội ngộ, cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Maria được xem như Lều thánh mới, Hòm bia Giao ước sống động. Tiếng xin vâng của Mẹ trở nên nơi gặp gỡ qua đó Thiên Chúa có được nơi hiện diện trên thế giới. Thiên Chúa, Đấng không ngự nơi những tòa nhà bằng đá, lại cư ngụ nơi một tiếng xin vâng với cả thân xác và linh hồn; Thiên Chúa, Đấng mà thế giới không thể nào chứa nổi, lại có để đến cư ngụ hoàn toàn nơi một con người. Luca nhiều lần khai triển chủ đề Ngôi đền thờ mới, Hòm bia Giao ước đích thực. Điều này đặc biệt đúng trong lời chào của Sứ thần dành cho Đức Maria, “mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”. Ngày nay hầu như không có ai tranh cãi những lời của Sứ thần mà Luca viết cho chúng ta đã lấy lại nội dung lời hứa dành cho thiếu nữ Sion trong sách Xôphônia 3,14 vốn loan báo cho thiếu nữ Sion rằng Thiên Chúa đang ngự nơi cô. Do đó, lời chào của Sứ thần cho thấy chính Đức Maria vừa là thiếu nữ Sion vừa là nơi Thiên Chúa cư ngụ, ngôi lều thánh mà trên đó đậu lại đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa. Các giáo phụ đã nắm bắt ý tưởng này mà kết quả là đã có những ảnh hưởng mang tính quyết định đối với nghệ thuật ảnh tượng của Kitô giáo cổ thời. Với cây gậy trổ hoa, thánh Giuse được xem như một vị thượng tế, nguyên mẫu của vị giám mục Kitô giáo. Về phần mình, Đức Maria là Giáo hội sống động. Chính trên Mẹ mà Thánh Thần ngự xuống, và do đó biến Mẹ thành Đền thờ mới. Thánh Giuse, người công chính, được chỉ định làm người quản lý những mầu nhiệm của Thiên Chúa, người cha trong gia đình và người bảo vệ thánh điện, là Đức Maria và Ngôi Lời trong lòng Mẹ. Vì thế, thánh Giuse trở thành hình mẫu (icon) của vị giám mục, người mà tân nương đính ước. Nàng không theo sự tùy ý sắp đặt của phu quân, nhưng ở dưới sự bảo vệ của chàng. Mọi chi tiết ở đây đều trực tiếp hướng đến Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng chính vì lý do này mà sự hiện diện của Thiên Chúa với chúng ta trong lịch sử trở nên đặc biệt rõ ràng và hữu hình nơi mầu nhiệm Đức Maria và Giáo hội.
Đối với tôi, một điểm nữa trong trình thuật truyền tin của Luca dường như lại rất quan trọng đối với vấn đề của chúng ta. Thiên Chúa đòi hỏi tiếng xin vâng của con người. Ngài không đơn giản dùng quyền để ra lệnh. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dựng nên một con người tự do đối diện Ngài và giờ đây Ngài muốn sự tự do ấy từ phía thụ tạo này để hiện thực hóa vương quốc của Ngài, vương quốc được thiết lập, không dựa trên quyền lực bên ngoài, mà là tự do. Nơi một trong những bài giảng của mình, thánh Bernado thành Clairvaux đã miêu rả đầy kịch tính sự chờ đợi của Thiên Chúa và nhân loại:
Sứ thần đang đợi câu trả lời của Mẹ, vì đã đến lúc ngài quay về với Đấng đã sai ngài đến… Ôi lạy Mẹ, hãy tặng ban câu trả lời mà cả trần thế, hỏa ngục và thiên đàng đang mong ngóng. Chúa Tể muôn loài giờ đây khao khát câu trả lời đồng ý của Mẹ cũng như khi Ngài mong muốn vẻ đẹp của Mẹ… Tại sao Mẹ lại lưỡng lự? Tại sao Mẹ lại lo sợ? … Nhìn kìa, khát khao của các quốc gia đang đứng trước cửa mà gõ. Ôi, điều gì sẽ xảy ra nếu Ngài đi ngang qua trong khi Mẹ còn do dự? … Hãy đứng dậy, nhanh lên, mở cửa ra! … Hãy đứng dậy bằng niềm tin, hãy vội vã bằng sự hiến thân. . . mở ra bằng sự đồng ý!
Nếu không có sự đồng ý tự do từ phía Mẹ Maria, Thiên Chúa không thể làm người. Chắc chắn, tiếng xin vâng của Đức Maria hoàn toàn là ân sủng. Tín điều Đức Maria không vướng nguyên tội chỉ nhằm mục đích chứng tỏ rằng không phải một con người đã làm cho ơn cứu chuộc bắt đầu bằng sức riêng của mình; đúng hơn, tiếng xin vâng của Mẹ hoàn toàn bao hàm trong tính ưu việt và ưu tiên của tình yêu Thiên Chúa, đã bao bọc Mẹ trước cả khi Mẹ được sinh ra. “Tất cả là hồng ân”. Nhưng ân sủng không hủy bỏ tự do; ân sủng tạo nên tự do. Toàn bộ mầu nhiệm cứu chuộc được thể hiện nơi trình thuật này và được tập trung nơi hình ảnh của Đức trinh nữ Maria: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
c. Tựa ngôn của Tin mừng Gioan
Giờ đây chúng ta chuyển sang tựa ngôn của Tin mừng Gioan, dựa trên ngôn ngữ của kinh Tin kính. Ở đây, tôi cũng chỉ muốn phác thảo ba ý tưởng. “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và cắm lều giữa chúng ta”. Ngôi Lời đã trở nên xác phàm: chúng ta đã quá quen với những từ này đến nỗi sự tổng hợp vĩ đại của Thiên Chúa đối với các cấu phần dường như không thể nối kết với nhau, mà các giáo phụ chỉ có thể thấm nhập qua một quá trình tiệm tiến, thì nay chẳng còn làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Ở đây, vẫn là điều mới lạ đặc biệt của Kitô giáo vốn đã là vô lý và không thể tưởng tượng nỗi trong suy nghĩ của người Hy Lạp. Những gì mà đoạn Tin mừng này nói đến không bắt nguồn từ một nền văn hóa cụ thể nào, như Sêmít hay Hy Lạp, như ngày nay người ta vẫn khẳng định một cách thiếu suy nghĩ hết lần này đến lần khác. Tuyên bố này trái ngược với tất cả các hình thức văn hóa mà chúng ta đã biết. Đó là điều không thể tưởng nghĩ được đối với người Do Thái (mặc dù do nhiều lý do hoàn toàn khác nhau), cũng như đối với người Hy Lạp, người Ấn Độ, hoặc thậm chí đối với đầu óc hiện đại, vốn xem tổng đề của thế giới hiện tượng và tự thân là hoàn toàn phi thực tế và chống lại nó bằng nhận thức của lý tính tân thời. Những gì được nói ở đây là “mới” bởi vì nó đến từ Thiên Chúa và chỉ có thể do Thiên Chúa mà thôi. Nó là cái gì đó hoàn toàn mới và xa lạ đối với mọi nền lịch sử và văn hóa; mà chúng ta có thể bước vào bằng đức tin và chỉ bằng đức tin mà thôi, và khi làm như thế những chân trời hoàn toàn mới về suy tư và cuộc sống sẽ được mở ra cho chúng ta.
Nhưng trong đoạn này, Gioan còn có ý nhấn mạnh một điểm khác khá đặc biệt. Việc tuyên bố rằng Ngôi Lời đã trở thành sarx (xác phàm) báo trước cho chương 6 của Tin mừng Gioan, hoàn toàn là một phần mở rộng của phân nửa câu này. Ở đó, Đức Kitô nói với người Do Thái và thế gian rằng: “Bánh tôi sẽ ban tặng [đó chính là Ngôi Lời, Đấng là bánh đích thực của con người] chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Chữ “xác thịt” nói cho chúng ta về sự thánh hiến của Đức Giêsu như một hy tế, về mầu nhiệm thập giá và về mầu nhiệm bí tích phục sinh phát sinh từ đó. Ngôi Lời không chỉ đơn giản trở nên xác phàm theo cách thức mơ hồ nào đó vì lợi ích đạt được từ một tình trạng hiện hữu mới. Ẩn tàng trong việc nhập thể của Ngài là sự năng động của hy tế. Chúng ta có một tham chiếu khác nơi những lời của Thánh vịnh: “Chúa đã tạo cho con một thân thể” (Hr 10,5; Tv 40). Do đó, câu ngắn gọn này chứa đựng toàn bộ Tin mừng; chúng ta được nhắc nhớ về cách diễn tả của các giáo phụ mà theo đó Ngôi Lời đã cam kết và trở nên nhỏ bé. Điều này đúng ở hai điểm. Trước hết, Ngôi Lời vô hạn đã trở nên nhỏ bé theo nghĩa trở thành một đứa bé. Nhưng Lời vô hạn, sự thành toàn tròn đầy của Kinh thánh, cũng tập trung nơi câu này, nơi đó cả lề luật và các ngôn sứ đều tập hợp lại với nhau. Hiện hữu và lịch sử, thờ phượng và luân lý đạo đức đều nối kết và cùng hiện diện mà không có sự hạn chế nào trong trung tâm mang chiều kích Kitô học này.
Điểm nhận xét thứ hai mà tôi muốn trình bày có thể sẽ ngắn. Gioan nói về sự hiện diện của Thiên Chúa như hệ quả và mục đích của việc nhập thể. Tác giả Tin mừng sử dụng từ “lều” để diễn tả ý tưởng này và như vậy chỉ về Lều hội ngộ trong Cựu ước, do đó, cũng về thần học Đền thờ được thành toàn trong Ngôi Lời nhập thể. Nhưng trong từ Hy lạp “lều” – skene – chúng ta cũng nghe thấy âm vang của từ Shekinah trong tiếng Hípri. Đây là từ mà những người Do Thái ban đầu dùng để chỉ đám mây thánh thiêng; rồi sau đó, trở thành tên của chính Thiên Chúa, qua việc công bố “sự hiện diện đầy khoan dung của Thiên Chúa dành cho những người Do Thái được quy tụ để cầu nguyện và nghiên cứu lề luật”. Đức Giêsu là Shekinah đích thực mà qua đó, Thiên Chúa ở giữa chúng ta bất cứ khi nào chúng ta quy tụ nhân danh Ngài.
Cuối cùng, chúng ta phải nhìn thoáng qua cả câu. Đức Giêsu – Ngôi Lời – đã ban quyền trở thành con cái Thiên Chúa cho những ai đón nhận Ngài, “họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. Có hai truyền thống khác nhau giữa các chứng từ bản văn, và ngày nay người ta không còn có thể quyết định đâu là cách đọc nguyên thủy. Về mặt ý định và mục đích thì dường như cả hai truyền thống đều cổ xưa và uy thế như nhau. Cụ thể, một bản ở số ít: “người ấy được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. Cùng lúc đó là bản thông thường ở số nhiều: “họ được sinh ra … bởi Thiên Chúa”. Có thể hiểu rằng có hai truyền thống văn bản, bởi vì trong cả hai trường hợp, câu này đều đề cập đến cả hai chủ thể. Vì lý do này, chúng ta phải luôn luôn đọc song song hai truyền thống, bởi vì chỉ có việc cùng đọc cả hai mới mang lại toàn bộ ý nghĩa cho bản văn. Nếu chúng ta sử dụng bản thông thường ở số nhiều, thì bản văn nói về những người chịu phép rửa, đã được Thiên Chúa ban cho sự tái sinh nhờ Ngôi Lời. Nhưng mầu nhiệm về việc sinh hạ đồng trinh Đức Giêsu, nguồn gốc của việc chúng ta được Thiên Chúa sinh ra, cũng được trình bày một cách rõ ràng đến nỗi chỉ có thành kiến mới có thể chối bỏ bản văn này. Đồng thời, ngay cả khi chúng ta coi bản “số ít” là phiên bản gốc, thì vẫn hiển nhiên đề cập rõ ràng đến “tất cả những người đã tiếp nhận Ngài”. Rõ ràng, vấn đề việc Đức Giêsu được thụ thai do Thiên Chúa, cuộc sinh hạ mới mẻ của Ngài là để “đón nhận” và tái sinh chúng ta. Cũng giống như câu nói về việc nhập thể của Ngôi Lời hướng đến chương 6 về Bí tích Thánh Thể, câu này rõ ràng báo trước cuộc đối thoại với Nicôđêmô ở chương 3. Đức Giêsu nói với Nicôđêmô rằng việc sinh ra về mặt thể xác không đủ để được vào Nước Thiên Chúa. Cần có sự tái sinh bởi ơn trên, là được tái sinh bởi nước và Thần Khí (Ga 3,5). Đức Kitô, Đấng nhờ quyền năng Thánh Thần được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, là khởi đầu của một nhân loại mới, một phương thức hiện hữu mới. Trở thành một Kitô hữu có nghĩa là được đưa vào sự khởi đầu mới này.
Việc trở thành một Kitô hữu còn hơn cả việc hướng về những ý tưởng mới, một đặc tính mới hay một cộng đoàn mới. Sự biến đổi này có tính chất căn bản của một cuộc sinh ra thực sự, một cuộc sáng tạo mới. Nhưng một lần nữa, điều này có nghĩa là Mẹ Đồng Trinh ở ngay tại trung tâm của biến cố cứu độ. Với toàn thể con người, Mẹ đảm bảo cho điều mới mẻ mà Thiên Chúa đã thực hiện. Chỉ khi câu chuyện của Mẹ là đúng và có mặt ngay lúc ban đầu thì những lời của thánh Phaolô mới trở nên chân thật: “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới” (2Cr 5,17).
Phó tế Phêrô Bùi Đức Trịnh chuyển ngữ từ Joseph Ratzinger and Hans Urs Von Balthasar, Mary—The Church at the Source, translated by Adrian Walker (San Francisco: Ignatius Press, 2005)