TỔNG QUÁT NHỮNG ÁN LÝ VÔ HIỆU CỦA HÔN NHÂN
Một kết ước hôn nhân đã thành sự thì tạo nên một dây hôn phối ràng buộc vĩnh viễn, bất khả phân ly. Tuy nhiên nó có thể được Tòa án tuyên bố là đã không thành sự và lúc đó hôn nhân được Giáo Hội công nhận là đã không được thành lập hữu hiệu. Một hôn nhân vô hiệu như vậy thì không tạo nên mối dây ràng buộc hôn nhân, các bên trong hôn nhân có thể tiến tới một hôn nhân mới khác. Tòa án khi tuyên bố hôn nhân không thành sự thì phải căn cứ trên những lý do làm cho sự kết ước hôn nhân không thành. Những lý do này không đơn giản và dễ hiểu. Ở đây chỉ xin trình bày một cách tổng quát những nét chính yếu và kèm theo những ví dụ hoàn cảnh cụ thể, có thể được xét là có lý do để nộp đơn lên tòa án cho những ai có yêu cầu.
Yếu tố chính yếu nhất để trở thành vợ chồng chính là sự “ưng thuận” của hai người nam nữ, mà không ai có thể thay thế được. Giáo luật quy định về sự thành lập hôn nhân và sự ưng thuận kết ước như sau:
Chính sự ưng thuận của đôi bên được biểu lộ cách hợp thức giữa những người có năng cách về mặt pháp lý làm nên hôn nhân và không một quyền lực nào của loài người có thể thay thế được sự ưng thuận ấy (đ. 1057§1).
Ba yếu tố chính yếu làm nên kết ước hôn nhân: 1- được thực hiện bởi người có năng cách pháp lý, 2- sự ưng thuận; 3- sự ưng thuận đó phải được biểu lộ hợp thức. Thiếu một trong ba yếu tố này, kết ước hôn nhân sẽ vô hiệu.
a-Người có năng cách pháp lý, tức là những người được pháp lý công nhận là có đủ khả năng và tư cách để kết hôn. Giáo luật quy định 12 ngăn trở tiêu hôn, quy định về năng cách pháp lý kết hôn. Người đang vướng ngăn trở thì kết hôn vô hiệu.
b-Sự ưng thuận phải được thực hiện trong sự sáng suốt và tự do, nếu không sự ưng thuận sẽ bị hà tỳ và sự kết hôn vô hiệu.
c-Sự ưng thuận phải được biểu lộ hợp thức, nghĩa là biểu lộ theo những hình thức mà luật hay lệ quy định. Trong hôn nhân Công Giáo, nó phải cử hành theo thể thức được giáo luật định (forma canonica). Không cử hành hoặc cử hành không đúng theo thể thức luật quy định thì kết hôn vô hiệu.
Sự vô hiệu hôn nhân vì vậy được chia thành ba nhóm:
- có ngăn trở tiêu hôn;
- ưng thuận bị hà tỳ;
- thiếu thể thức giáo luật.
I- Có ngăn trở tiêu hôn
Một ngăn trở mà làm cho hôn nhân vô hiệu gọi là ngăn trở tiêu hôn. Khi kết hôn mà còn vướng ngăn trở tiêu hôn thì hôn nhân vô hiệu, cho dù người kết hôn hay người chứng hôn không hay biết hoặc sai lầm. Giáo Luật quy định 12 ngăn trở tiêu hôn, bao gồm (đ.1083-1094):
1)
Tuổi (đ.1083#1): chưa đủ 16-14 tuổi trọn kết hôn bất thành. Tuổi phải đủ 20-18 là để kết hôn hợp thức (đ. 1083#2). Ví dụ nữ chưa đủ 14 tuổi thì kết hôn vô hiệu; nữ chưa đủ 18 tuổi kết hôn bất hợp thức, nhưng không vô hiệu.
2)
Bất lực giao hợp (đ. 1094#1): dương vật không thể đi vào và tiết tinh trong âm đạo. Bất lực có trước kết hôn và vĩnh viễn, về phía người nam hay người nữ, tuyệt đối hay tương đối thì làm hôn nhân bất thành. Tương đối là chỉ đối với một số người nào đó chứ không với hết mọi người. Người nữ có thể bị bất lực tương đối với một người chồng nào đó, thường do bị sốc tâm lý.
3)
Dây hôn phối (đ. 1085#1): Đang bị ràng buộc bởi dây hôn phối trước, (dù kết hôn của hai người lương), dù chưa hoàn hợp, kết hôn bất thành.
4)
Khác đạo (đ. 1086): Kết hôn giữa người Công Giáo và một người không được rửa tội thì bất thành.
5)
Chức Thánh (đ. 1087): Phó tế, linh mục… kết hôn bất thành.
6)
Khấn dòng (đ. 1088): Tu sĩ trong một hội dòng đang bị ràng buộc bởi lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh kết hôn bất thành.
7)
Bắt cóc (đ. 1089): Người nữ bị bắt cóc hay bị giam giữ để bị buộc kết hôn thì kết hôn bất thành.
8)
Tội ác (đ. 1090): Người có chủ ý kết hôn và gây ra cái chết của phối ngẫu người ấy hay của mình thì kết hôn bất thành.
9)
Họ máu (đ. 1091): Hai người có liên hệ họ máu hàng dọc kết hôn bất thành. Trong họ máu hàng ngang, hôn nhân bất thành đến hết bậc (đời) thứ bốn. Vd. anh em họ chú bác hay cậu dì, có liên hệ họ máu hàng ngang 4 bậc, kết hôn bất thành.
10)
Họ kết bạn (hôn thuộc) (đ. 1092): kết hôn bất thành bất cứ có liên hệ hôn thuộc hàng dọc nào. Họ kết bạn được hình thành do cuộc kết hôn thành sự. Ví dụ: Sau khi vợ chết, người chồng kết hôn với mẹ hay con riêng của vợ đều bất thành.
11)
Công hạnh (liêm sĩ) (đ. 1093): Phát sinh do kết hôn bất thành hay sống chung công khai hay hiển nhiên. Ngăn trở này tiêu hôn ở bậc thứ nhất hàng dọc. Ví dụ: Người đàn ông kết hôn với mẹ hay con riêng của người đàn bà mà mình đã từng sống chung, thì bất thành.
12)
Pháp tộc: do việc nhận con nuôi được pháp lý công nhận, kết hôn bất thành ở hành dọc hoặc ở bậc thứ hai thuộc hàng ngang. Có họ thiêng liêng, qua việc đở đầu Rửa tội không gây ngăn trở tiêu hôn.
Ít khi xảy ra kết hôn bất thành do ngăn trở, vì trước khi cho kết hôn, các cha chứng hôn cẩn thận cho rao báo và điều tra về ngăn trở. Ở tòa án hôn phối, đôi khi chỉ xảy ra trường hợp bất lực hoặc dây hôn phối.
Về dây hôn phối thì trong một vài trường hợp vì không biết hay hiểu lầm cha chứng hôn cho người Công Giáo kết hôn với một người lương mà đã có vợ người lương trước và đã chia tay. Theo Giáo Luật, kết hôn giữa hai người lương dù đã chia tay thì dây hôn phối ngoài luật đạo đó vẫn còn tồn tại và gây ngăn trở tiêu hôn.
II- Hà tỳ ưng thuận
Yếu tố quan trọng nhất để kết ước hôn nhân thành sự chính là sự ưng thuận nhận nhau làm vợ chồng, và sự ưng thuận này phải được diễn tả qua một thể thức công (public form). Khi sự ưng thuận này bị khiếm khuyết, việc kết ước hôn nhân bất thành.
Sự ưng thuận là một hành vi của con người với hai yếu tố cơ bản: lý trí và ý chí, nghĩa là, để thực hiện sự ưng thuận hữu hiệu, người đó phải có đủ hiểu biết và có ý muốn tự do. Lý trí có thể bị lệch lạc, sai lầm hay không biết; ý chí có thể bị áp lực sợ hãi... Những điều này làm cho hành vi ưng thuận bị khiếm khuyết hay hà tỳ. Sự ưng thuận kết ước bị khiếm khuyết nên kết ước bất thành hay vô hiệu (invalid).
Sau đây là những lý do hay những cơ sở gây tiêu hôn được Giáo Luật quy định:
1- Thiếu khả năng kết hôn (đ. 1095)
a.
Do thiếu phân định
Người thiếu nghiêm trọng sự phân định chính đáng (defectu discretionis iudicii) về những quyền lợi và bổn phận trao ban cho nhau trong hôn nhân thì kết hôn vô hiệu (đ.1095, 2
0). Được xem là thiếu phân định chính đáng khi: 1- không làm chủ được hành vi suy biết của mình, hoặc 2- nhận định sai lạc như về nghĩa vụ trao ban cho nhau. Ví dụ. Quan niệm chồng có quyền độc đoán, coi vợ như tỳ thiếp, như nô lệ, như một nơi thỏa mãn nhục dục.
Những nguyên nhân của thiếu phân định có thể là:
- Không có khả năng kiềm chế hay kiểm soát các bốc đồng và các đam mê, được thấy ở một số trường hợp: có bệnh tâm trí, hoang tưởng; nghiện hút; nghiện rượu, đam mê cờ bạc, hung bạo.
- Nhạy cảm thái quá về nhục dục hay đam mê tính, được thấy trong một số trường hợp: sống bê tha vô trách nhiệm.
- Không chắc chắn trong các quyết định (thiếu quả quyết) về tình cảm và xu hướng.
- Rất khó để khôi phục mối tương giao với người khác và với xã hội, thích sống cuộc sống tầm thường vô vị, thiếu ý nghĩa nhất là trong công việc hay là nặng trĩu với những kinh nghiệm nguy hiểm về tình dục.
Những trường hợp cụ thể có thể được Tòa án hôn phối cứu xét là:
- Bị bệnh tâm trí
- Sống bê tha, rượu chè, cờ bạc…
- Thường hay đánh đập vợ.
- Lệ thuộc cha mẹ mà không làm chủ được đời sống vợ chồng.
- Sống lập dị hoặc có tu tưởng và phong tục tập quán khác xa xã hội hiện đại.
b- Do bản chất tâm lý không thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân (đ.1095,3
0).
Những sự kiện có thể xảy ra tương tự như do thiếu phân định chính đáng nhưng lại có nguồn gốc từ tâm lý. Có thể kể các trường hợp:
- Rối loạn nhân cách (
personality disorder); loạn thần kinh chức năng (
neuroses); loạn thần kinh (
psychoses); rối loạn do lo âu (
anxiety disorder); rối loạn do tâm thần phân liệt (
schizophrenia), rối loạn cảm xúc nặng hay trầm cảm (
dysthymic disorde);
- Nghiện rượu (
alcohol dependence) và các chất kích thích khác như ma túy…
- Rối loạn tình dục hay rối loạn tâm sinh dục (
psychosexual);
- Đồng tính luyến ái (
homosexuality).
- Bản chất hung hãn bạo động, thường xuyên đánh đập vợ.
- Có bệnh nguy hiểm như AIDS (
Acquired Immune Deficiency Syndrome).
Một số học giả khoa luật còn xét theo một ý niệm là sự “trưởng thành tâm lý tình cảm
” cho cả hai khoảng số 2 và 3 của điều 1095.
2-
Thiếu trưởng thành (đ. 1096): không biết hôn nhân là một sự hiệp thông vĩnh viễn giữa một người nam và một người nữ, nhắm đến việc sinh sản con cái do một sự cộng tác nào đó thuộc phái tính (đ. 1096). Ví dụ: Một cô gái tưởng rằng chỉ hôn nhau cũng đã có thể sinh con hoặc tưởng rằng kết hôn là để sống chung với nhau như anh em. Sự thiếu trưởng thành này khác với trưởng thành tâm lý tình cảm nói ở điều 1095.
3-
Lầm lẫn:
a.
Lầm lẫn nhân thân (đ. 1097#1): lầm người này với người khác; hay lầm nhiều đặc tính về một người khiến tưởng người này nhưng hóa ra người khác. Ví dụ: tưởng là anh hùng chiến sĩ nhưng thực tế chỉ là tên tướng cướp hay tên trộm vặt; tưởng là một người có ăn học đàng hoàng nhưng thực ra là một kẻ thất học lêu lổng; tưởng là cô gái nết na nhưng thực ra là gái điếm.
b.
Lầm lẫn một phẩm cách được nhắm đến một cách trực tiếp và chính yếu (đ. 1097#2)
. Được coi là trực tiếp và chính yếu nhắm đến khi phẩm cách đó được chú trọng hơn là chính con người. Ví dụ: Cô nàng kết hôn chỉ vì anh ấy là bác sĩ nhưng thực tế anh ấy chỉ là y tá; anh nhắm đến cô gái còn trinh thì mới kết hôn nhưng thực tế anh bị sai lầm; anh tin rằng cô gái này đã hoàn lương nên anh mới kết hôn nhưng thực tế thì anh bị lầm. Những lầm lẫn khác dù nhiều nhưng đó không phải là điều trực tiếp và chính yếu được nhắm đến thì không làm tiêu hôn.
c. Lầm lẫn do lừa gạt (đ. 1098) về một điều tự bản chất có thể gây xáo trộn nghiêm trọng trong đời sống vợ chồng thì làm hôn nhân vô hiệu. Ví dụ như che dấu: sự vô sinh, có con riêng, bệnh truyền nhiễm nặng, nợ nần nghiêm trọng; hoặc đóng kịch: giàu có, địa vị cao, quyền lực…. Tuy nhiên, lừa gạt về một điều tự nó không gây xáo trộn đời sống vợ chồng thì không gây tiêu hôn, ví dụ như che dấu việc hay hút thuốc, tính xấu…
4- Kết hôn giả hình (simulatio) (đ. 1101#2) là khi kết hôn đã có ý chí tích cực hay ý muốn (chứ không phải sau kết hôn) loại trừ chính hôn nhân hay một điều chính yếu nào của hôn nhân như sự thiện ích hôn nhân, tính bất khả phân ly, sự chung thủy đơn nhất, thiện ích con cái. Sự loại trừ này cũng có thể được hiểu là sự không tôn trọng, coi thường, ví dụ như khi kết ước hôn nhân suốt đời mà trong lòng lại không tôn trọng tính bất khả phân ly, hoặc như khi kết ước hôn nhân mà một người vẫn giữ quan niệm rằng: nếu hôn nhân không hạnh phúc thì tôi sẽ chia tay.
a- Loại trừ (exclude) chính hôn nhân: Kết hôn cốt chỉ lấy hình thức để được lợi điều gì khác chứ không phải vì chính hôn nhân. Ví dụ như kết hôn chỉ để được sang định cư ở Mỹ và sau đó ly dị; hoặc kết hôn chỉ để lấy danh dự sau đó thì chia tay.
b- Loại trừ thiện ích của hôn nhân (bonum coniugum): loại trừ bổn phận xây dựng hạnh phúc gia đình. Ví dụ kết hôn với quan niệm người vợ chỉ như người đầy tớ, hay như người phục vụ; hoặc như kết hôn chỉ để lợi dụng tiền bạc, danh tiếng chứ không phải vì những thiện ích vợ chồng; hoặc kết hôn chỉ để trả thù.
c- Loại trừ tính bất khả phân ly, sự chung thủy đơn nhất: có ý không tôn trọng luật bất khả phân ly hay đơn nhất của hôn nhân.
Án lệ thường đòi ý nghĩ loại trừ phải minh nhiên, nghĩa là đòi phải có chứng cứ về sự biểu lộ bằng lời nói hay hành vi về sự loại trừ, nhưng án lệ cũng chấp nhận nó có thể là mặc nhiên miễn là có cơ sở để suy đoán ra được.
Sự thiếu đức tin hoặc đã quen sống trong nếp văn hóa, tôn giáo đa thê hay chấp nhận cho lý dị tái hôn có thể góp phần rất lớn trong suy đoán rằng một người đã kết hôn giả hình.
Ở Việt Nam, có nhiều người lương hay người mới theo đạo kết hôn với người Công giáo nhưng họ không có đức tin. Do không có đức tin nên cũng không tôn trọng tính chung thủy hay bất khả phân ly của hôn nhân. Trường hợp này thường hay xảy ra, ví dụ như: Việt kiều về VN, theo đạo nhưng không tin, kết hôn, sau đó trở về Mỹ lấy người khác; nàng theo đạo lấy chồng nhưng không tin, chỉ vì xung đột nhỏ với chồng hay mẹ chồng liền cuốn gói về nhà mẹ và lấy chồng khác.
Ngoại trừ những thú nhận minh nhiên của đương sự, những sự kiện sau cũng giúp xác định cho kết hôn giả hình:
- Thường xuyên ngoan cố trong mối liên hệ ngoài hôn nhân vào thời gian kết hôn hay một thời gian ngay sau khi kết hôn.
- Dành cho mình quyền quan hệ tình dục với những người khác.
- Kết hôn nhiều lần: lần hai rồi lần ba...
- Thời gian chung sống quá ngắn ngũi, do sự rút lui đơn phương và cương quyết dù người kia không muốn và còn đang tìm cách cứu vãn.
- Người nữ lỡ có thai đành phải kết hôn nhưng trong lòng không muốn kết hôn vĩnh viễn, sau đó có cơ hội thì tự ý chia tay.
d- Loại bỏ thiện ích con cái (bonum prolis) có thể là loại bỏ sự sinh sản hay loại bỏ sự nuôi dưỡng giáo dục con cái. Ví dụ: phá thai, ngừa thai liên tục với ý không sinh con, có theo đạo mà không cho con được rửa tội; hoặc sinh con ra mà không lo giáo dục mà chỉ bắt chúng lao động kiếm tiền.
5. Kết hôn với điều kiện (đ.1102)
a-Điều kiện tương lai (đ. 1102#1)
Được coi là điều kiện kết hôn khi một điều được đặt ra như một điều tiên quyết để kết hôn, nghĩa là, nếu không đồng ý với điều kiện đó thì bên kia sẽ không chịu kết hôn. Nói một cách khác, người kết hôn ra điều kiện thì người này coi điều kiện là quan trọng hơn là người mình sẽ kết hôn. Vd. “Anh theo đạo để kết hôn với tôi nhưng nếu anh không giữ đạo tôi sẽ không kết hôn”; “Nếu sau kết hôn mà anh không định cư ở Úc thì tôi không kết hôn”; “Nếu sau kết hôn 2 năm mà anh không đậu bằng đại học thì tôi không kết hôn”...
Lý do sự vô hiệu của điều kiện tương lai là do chính ý nghĩa của hôn nhân. Kết hôn là kết ước để yêu và sống với người yêu suốt đời chứ không phải vì một điều khác. Nếu vì điều khác thì coi hôn ước như là phương tiện để đạt được điều khác đó. Vì vậy, ngay cả sau khi kết hôn mà điều kiện đã được hoàn thành, hôn nhân vẫn được xét vô hiệu
b-Điều kiện quá khứ hay hiện tại (đ.1102#2)
Điều kiện về quá khứ, ví dụ: “Tôi lấy anh, với điều kiện là mẹ anh đã chết”; hoặc hiện tại, Vd “Tôi lấy em, với điều kiện em còn là trinh nữ”. Điều kiện về quá khứ hay hiện tại chỉ vô hiệu hôn nhân khi điều kiện không được thỏa mãn.
6. Kết hôn do sợ hãi nghiêm trọng
Điều 1103:
Hôn nhân bất thành, nếu vì bạo lực hay sợ hãi nghiêm trọng từ bên ngoài, mặc dầu không cố tình gây nên, người ta buộc phải lựa chọn hôn nhân để tự giải thoát.
Sự sợ hãi làm khiếm khuyết tự do ưng thuận nên kết hôn vô hiệu. Có nhiều mức độ sợ hãi nhưng Giáo Luật đòi có tính nghiêm trọng để xét là vô hiệu hôn nhân. Tuy nhiên sự sợ hãi lại là một hành vi thuộc bên trong tâm hồn rất khó xác định. Vì vậy, tòa án không chỉ đòi chứng cứ cho sự gây ra sợ hãi mà còn cho sự miễn cưỡng kết hôn. Một số ví dụ có thể kể;
- Bị cha mẹ đe dọa nặng nề (đánh đập, từ bỏ, cắt giảm quyền thừa kế…) nên đành kết hôn,
- Do kính sợ cha mẹ, không muốn cha mẹ tức giận hay làm buồn lòng cha mẹ, hay không muốn làm cho cha mẹ đau bệnh thêm nên miễn cưỡng kết hôn. Đây là một khái niệm mới, gọi là “kính sợ” (timor reverentialis) được án lệ hiện nay chấp nhận xét là vô hiệu hóa hôn nhân.
- Sợ bị mất danh dự, mất nghề nghiệp, tổn hại… Vd. Nếu không kết hôn thì bị chủ sa thải; Người phụ nữ lỡ có thai nên sợ hãi, đành kết hôn (k.14#1); Bị chàng trai mình không thích de dọa nên sợ và miễn cưỡng kết hôn với người khác mà mình không muốn kết hôn…
III- Thiếu thể thức giáo luật (forma canonica) (đ. 1108)
Sự ưng thuận kết hôn phải được diễn tả bằng một hình thức được Giáo Luật quy định theo điều 1108 và một số điều khác. Nếu không cử hành hay cử hành mà không thực hiện đầy đủ những yếu tố cần thiết mà luật đòi để được hữu hiệu thì sự kết ước vô hiệu. Sự thiếu thể thức ít khi xảy ra. Tuy nhiên cũng có thể kể một số trường hợp: Cha chứng hôn không có năng quyền chứng hôn và cũng không được sự ủy nhiệm năng quyền (đ. 1108); cử hành hôn nhân theo đặc ân thánh Phaolo (đ. 1143) nhưng không tra vấn (interpellatio) mà không xin Đấng Bản Quyền miễn chuẩn tra vấn (đ. 1144).
IV- Phụ chú
Các tín hữu có quyền hiểu biết những án lý nêu trên và các linh mục có khả năng nên như các luật sư giúp họ nhận ra những lý do để xin tòa án công bố hôn nhân vô hiệu. Tuy nhiên, khi đưa ra lý do tiêu hôn thì tín hữu phải có bổn phận trưng ra những bằng chứng và nhân chứng. Thẩm phán có nhiệm vụ thẩm cứu vụ án kỹ lưỡng để xác nhận hay không xác nhận sự vô hiệu của hôn nhân.
Trước khi được tòa án tuyên bố hôn nhân vô hiệu, hôn nhân cho dù có những lý do vô hiệu nêu trên vẫn được coi là hữu hiệu, do hôn nhân được luật ưu đãi (đ. 1060) và do sự ưng thuận trong lòng thì được cho là phù hợp với những diễn tả bên ngoài khi kết hôn (đ.1101#1).
Các thẩm phán cũng không được tự do nhận bất cứ vụ án nào, chỉ nhận xử khi “chắc chắn rằng hôn nhân đã đổ vỡ không còn sửa chữa được, đến nỗi không thể tái lập đời sống chung vợ chồng” (đ. 1675).
Xem thêm tại
http://giaoluatconggiao.com
Nha Trang, 1/12/2015
Lm JB Lê Ngọc Dũng