Tuần IV Mùa Vọng
Chúa Nhật IV MV/C
Niềm vui của con trẻ [Gioan] Elizabeth khi nhận ra Chúa [Giêsu] nơi Đức Maria
Ba cách giải thích chính về việc Đức Maria đến thăm người chị họ Elizabeth
Cuộc viếng thăm mà Đức Maria thực hiện với người chị họ Elizabeth được Luca viết ngay sau câu chuyện truyền tin về sự ra đời kỳ diệu của Đấng Messia, do thiên thần Gabriel thực hiện (Lc 1,26-38), mà chúng ta đã nghe đọc vào lễ trọng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Có nhiều cách giải thích khác nhau được đưa ra cho việc viếng thăm này. Ba cách thường được dùng:
Cách giải thích trung thực nhất về văn bản Kinh thánh là như sau: Đức Maria cần xác minh dấu hiệu mà thiên thần Gabriel đã chỉ cho bà: “Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được” (Lc 1:36). Dấu hiệu do thiên thần chỉ dẫn đã thúc đẩy cuộc hành trình đó: việc mang thai của Elizabeth cho thấy rằng “không có gì là không thể đối với Thiên Chúa”. Cuộc hành trình của Đức Maria diễn ra nhằm củng cố đức tin của Đức Maria và mang lại cho ngài sự chắc chắn rằng Thiên Chúa có đủ quyền năng để thực hiện phép lạ sinh ra một hài nhi trong lòng ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Và Hài Nhi này chính là Đấng Messia của lời hứa, Con Thiên Chúa đã được sai đến thế gian, Đấng đã mang lấy thân phận con người của chúng ta để cứu nhân loại.
Cách giải thích phổ biến nhất là như sau: Maria có động cơ đi nhanh đến nhà của Elisabeth và Zacaria vì lý do yêu thương, vì cô ấy muốn giúp đỡ người chị họ đã lớn tuổi và đang mang thai của mình những công việc hàng ngày của những người phụ nữ trong nhà, để giúp người chị họ của mình bình tĩnh hơn trong việc chăm sóc thai kỳ cho con. “Người tôi tớ của Chúa” (Lc 1:38a) đã trở thành tôi tớ của người khác, bởi vì lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự được thể hiện nơi tình yêu cụ thể dành cho người khác. Maria thực hiện chuyến đi với mong muốn thể hiện sự sẵn sàng phục vụ của mình. Sự phục vụ được coi như một món quà của bản thân dành cho người nghèo. Thái độ này chỉ có thể thực hiện được nhờ vào con đường khiêm nhường mà Mẹ Chúa Giêsu đã thực hiện.
Cách giải thích thứ ba mang tính truyền giáo và gắn liền với động cơ bác ái: “Đức Maria đi làm điều thiện và cuối cùng mang Chúa Kitô” đến cho bà Elizabeth đang mang thai. Do đó, cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ sẽ tượng trưng cho cuộc gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước. Elizabeth, một phụ nữ lớn tuổi, trở thành một nhân vật biểu tượng của Cựu Ước đang nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của Vua Messia, Đấng đến để giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức. Đức Maria, người mang Hài nhi Thiên Chúa trong lòng, là hình ảnh của Tân Ước. Bà Elizabeth và hài nhi, đang mang trong bụng bà ở tháng thứ sáu của thai kỳ, là những nhân vật đầu tiên trong Cựu Ước nhận ra Hài Nhi Giêsu, đã được cưu mang trong lòng Đức Maria, là Đấng Thiên Sai thực sự được chờ đợi. Bà Elizabeth nhìn nhận Đức Maria là “Mẹ Chúa tôi” (Lc 1:43). Hài nhi, người sẽ là tiền hô của Đấng Messia, đã bắt đầu nhận ra Chúa của mình, nhảy mừng trong lòng mẹ.
Những giải thích này mang lại giá trị cho đoạn văn tin mừng về cuộc viếng thăm và khuyến khích chúng ta sống bác ái như Đức Maria và củng cố đức tin của chúng ta vào mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa.
Niềm vui của con trai bà Elizabeth khi nhận ra Chúa nơi Đức Maria.
Thánh sử Luca muốn chúng ta tập trung sự chú ý vào niềm hân hoan của hài nhi trong bụng bà Elizabeth, như đã được ông thuật lại hai lần: lần đầu tiên do ông kể với tư cách là người kể chuyện: “khi bà Elizabeth nghe thấy lời chào của Đức Maria, hài nhi đã nhảy mừng trong bụng mẹ” (Lc 1:41); lần thứ hai qua lời của bà Êlisabét nói với Đức Maria: “Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi.” (Lc 1,44).
Biết và yêu Chúa Giêsu như việc Maria mang thai.
Niềm vui nhảy mừng của hài nhi Gioan trong lòng bà Elizabeth, lần đầu tiên được kể lại, khẳng định chứng minh sự thực hiện lời hứa mà thiên thần Gabriel đã hứa với ông Dacaria, chồng bà Elizabeth, trong đền thờ Giêrusalem : “Từ trong lòng mẹ Người sẽ được tràn đầy Thánh Thần” (Lc 1,15b). Việc Hài nhi Gioan, khi còn trong lòng mẹ, đã nhận ra Chúa Giêsu ẩn náu trong cung lòng Đức Maria và nhận ra điều đó với niềm vui mừng khôn xiết, là dấu hiệu cho thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ngài vào cùng thời điểm Chúa đổ đầy tâm hồn ngài với mẹ ngài là Elizabeth. Niềm vui, hoa trái của Chúa Thánh Thần, tràn ngập thân xác sống động của bà Elizabeth và hài nhi Gioan đang lớn lên trong bụng bà.
Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống chiếm hữu bà Elizabeth và con trai của bà là do sự viếng thăm và chào hỏi của Đức Maria. Luca không giải thích lời chào của Đức Maria khi bà bước vào nhà Zacharia và Ê-li-sa-bét. Điều quan trọng là sự hiện diện của Đức Maria, Đấng khiến tác động của Chúa Thánh Thần xảy ra, cả nơi Elisabeth lẫn nơi hài nhi Gioan trong cung lòng mẹ.
Thông điệp cho chúng ta hôm nay là gì?
Đón Đức Maria trong đời sống giúp chúng ta có tấm lòng hoàn toàn rộng mở đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta chiêm ngưỡng việc mang thai của Đức Maria. Đức Maria cảm thấy Con Thiên Chúa sinh ra và lớn lên trong mình, và hôm nay Mẹ dạy chúng ta biết và yêu mến Chúa Giêsu ngày càng nhiều hơn, giữ Người trong lòng như một người mẹ bầu bảo vệ con mình bằng sự quan tâm và trìu mến, cảm nhận Chúa lớn lên trong mình như món quà tuyệt vời nhất của cuộc đời mình.
Dâng Chúa Giêsu cho thế giới giống như việc Đức Maria mang thai
Niềm vui hân hoan của hài nhi Gioan trong lòng bà Êlisabét, được người mẹ kể trực tiếp lần thứ hai cho Đức Maria, cho thấy tầm quan trọng của Đức Maria đối với đời sống chúng ta với tư cách là môn đệ của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Elizabeth, được Chúa Thánh Thần soi dẫn, đã nhớ lại và đọc to những lời Útdigia đã nói với Juditha: “Này trang kiệt nữ, bà được Thiên Chúa Tối Cao ban phúc hơn tất cả những người phụ nữ trên trái đất này. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặt” (Jdt 13:18).
Sự khác biệt nằm ở chỗ bà Elizabeth đã nhận ra rằng “hoa quả lớn lên trong lòng Đức Maria” thực sự là Thiên Chúa làm người. Ngài nhớ lại câu Gdt 13,18, nhưng khi đáng lẽ phải nói “Chúc tụng Chúa là Đấng đã tạo dựng nên trời và đất”, ngài đã công bố với đức tin về thiên tính của Hài nhi Giêsu đang mang thai trong lòng Đức Maria, nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa: “ Phúc cho con lòng Mẹ” (Lc 1:42b). Đây là điều chúng ta luôn cầu nguyện khi đọc kinh Kính Mừng: “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng Bà được chúc phúc”.
Cầu xin Đức Maria cũng là “người có phúc giữa mọi tạo vật nhân loại” , vì Mẹ là “Mẹ Chúa” (Lc 1,43) và vì Mẹ là “người có phúc vì đã tin rằng những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lc 1,45).
Bà Elizabeth tôn kính Maria, người chị họ của bà, người đã đến thăm bà và nhìn nhận mẹ là Mẹ Thiên Chúa, người tôi tớ trung thành và vâng phục Lời Người.
Thông điệp cho chúng ta hôm nay là gì?
Đón Đức Maria trong đời sống giúp chúng ta đồng hóa với Mẹ, cảm nhận trách nhiệm tạo ra và rao giảng lời loan báo về Chúa Kitô trong thực tại chúng ta đang sống, giống như Đức Maria mang thai đã chăm sóc sinh ra và dâng Chúa Giêsu cho thế giới vào ngày Giáng sinh.
Sách Khải Huyền của Thánh Gioan nhìn thấy mọi cộng đoàn Kitô hữu tựa một người phụ nữ mang thai, luôn ghi nhớ Lời Chúa trong trái tim và tâm trí các thành viên, tiếp tục sinh ra và hiến dâng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa cho thế giới, vẫn còn đang bị ghi dấu bởi con rồng của thế lực ác quỷ (x. Khải Huyền 12,1-6).
Chúa Kitô là hòa bình mà thế giới đang chờ đợi, Ngài là khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa mà thế giới tìm kiếm, Ngài là thân thể được hiến tế một lần là đủ để thánh hóa chúng ta, Ngài là Đấng tận hiến cho ý muốn của Chúa Cha, nhưng Ngài cần chúng ta, như Người cần Đức Maria, để được nhận biết và yêu thương.
Ngày 22.12
Là Vua muôn dân
Lạy Đức Kitô là Vua muôn dân nước, Đấng hoàn cầu hằng mong ước đợi trông, là đá tảng góc tường nối dân Chúa với dân ngoại thành một, xin ngự đến ban ơn giải thoát cho con người do tay Chúa dựng nên!
Lời kinh Magnificat của Mẹ Maria. Hãy để Mẹ Maria dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu. Mẹ Maria cho ta biết bí quyết niềm vui của Mẹ. Mẹ đã chìm đắm trong thinh lặng và trong lời cầu nguyện suy tư tất cả những lời sứ ngôn và bài ca của bà Anna. Nếu ta biết lắng nghe, lòng bên lòng, Mẹ sẽ thông truyền cho ta hoa quả của việc Mẹ chiêm niệm. Lòng ta cũng sẽ bừng dậy niềm vui. Cả hai lời kinh ngợi khen mà Giáo Hội cho ta nghe, là nhằm mời gọi mỗi người hãy hát lên bài ca thứ ba của riêng mình. Một bài ca lắng đọng trong chiêm niệm những lời thánh kinh và trong kinh nghiệm hằng ngày.
Bà Anna dâng cậu con Samuel vào đền thờ, mang theo một con bò ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Lời cảm tạ và ngợi khen diễn tả vị thế đúng đắn của con người trước mặt Thiên Chúa vì những ân ban của Ngài. Lời ngợi khen của Maria trở thành lời kinh nguyện ban chiều của Giáo Hội, lời cảm tạ ngợi khen mỗi ngày các tín hữu dâng lên Chúa để kết thúc một ngày.
Vậy mà thường khi chúng ta chẳng có chút ý tưởng gì tạ ơn Chúa cả. Tạ ơn về điều gì? Trước tiên, về hồng ân sự sống của mình, của con cái mình. Trong cảm nghiệm của bà Anna, lòng biết ơn là điều hiển nhiên và bà đã dâng đứa con mà Chúa tặng ban cho Chúa. Đứa con khôgn thuộc về chúng ta, những người cha, người mẹ; cuộc đời của nó được thực hiện theo chương trình của Chúa chứ khôgn theo ý muốn hay sự đặt định của chúng ta. Trong lời ngợi ca của Mẹ Maria, chân trời rộng mở từ bình diện cá nhân đến toàn thể dân Chúa, đến lịch sử đã đến trước và còn tiếp theo sau. Con trẻ Giêsu sinh ra không chỉ là trẻ thơ trong vòng tay và trong lòng người mẹ. là sự hoàn thành tối đa toàn thể lịch sử Thiên Chúa với dân của Ngài, là diễn tả tròn đầy tình yêu thương của Đấng cúi xuống để cứu thoát, là chiến thắng sự dữ. Lời kinh Magnificat không chỉ diễn tả lòng tri ân của người mẹ, nhưng còn là lòng tri ân của toàn dân; của toàn dân kitô. Con Trẻ ấy được sinh hạ cho chúng ta.
Thay vì lời than van, là lời ca ngợi; thay vì những yêu sách, là sự hiến dâng hy sinh vất vả. Đó là cung cách mà tôi được mời gọi sống cách đặc biệt hôm nay, bằng cách ý thức đến ân huệ to lớn mình lãnh nhận và cố gắng chu toàn bổn phận được trao phó.
Ngày 23.12
Lạy Đấng Emmanuel
Lạy Đấng Emmanuel, Đấng nắm giữ vương quyền và ban hành luật pháp, xin đến cứu thoát chúng con!
Những ngày cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh, cần biết lắng nghe, biết bịt tai lại để khỏi bị lây nhiễm những rộn rịp chuẩn bị mang tính ‘ngoại giáo’ cho lễ Giáng Sinh, biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa: trước khi xuất hiện, lời Chúa nói với ta để chuẩn bị tâm hồn ta đón tiếp Ngài. Đấng mà chúng ta chờ đợi không phải là một sứ giả, cũng chẳng phải là một vị tiền hô: là chính Thiên Chúa, Thiên Chúa của giao ước. Ngài đến với ta, và chúng ta đã thấy Ngài, đã chạm đến Ngài, chúng ta nghe Ngài nói và lời Ngài nuôi dưỡng chúng ta. Cần đón nhận Đấng Messia như là ân huệ của tình yêu vô biên. Ngày của Chúa, được Malakia loan báo thật vĩ đại, chúng ta cần phải được thanh tẩy.
Tin mừng thuật lại giây phút ông Giacaria, tư tế thời Cựu Ước, tin tưởng tuân phục thánh ý Thiên Chúa: đặt tên cho con trẻ là Gioan. Nơi con trẻ, lời sứ ngôn Malaki được thực hiện, được sai đi để dọn đường cho Chúa Kitô, kêu gọi mọi người sám hối. Gioan, nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Tin và tuân phục Thiên Chúa, Giacaria đã được chữa lành khỏi tình trạng câm. Không chỉ là ông được chữa khỏi để nói được, nhưng còn biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Thiên Chúa. Mong trên môi miệng chúng ta vang lên những lời nói chân thực, ngay lành, những lời tụng ca Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở lưỡi con khỏi tật câm. Xin gìn giữ khỏi những lời gian trá, điêu ngoa, cay chua và rỗng tuếch. Xin cho con biết ngợi khen và ca tụng Chúa, Đấng cứu độ chúng con.
Ngày 24.12
Chiều nay, đêm nay, đông đảo dân chúng sẽ mừng lễ Giáng Sinh, mà không chút nghĩ gì đến lời của Giacaria: ‘Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người’. Còn chúng ta? Chúng ta có ý thức tình trạng tội nhân của mình và do đó ta cần một Đấng cứu chuộc không?
Bài tụng ca của Giacaria vẽ nên chương trình của Giao Ước mới: cử hành việc phụng thờ trước mặt Thiên Chúa, để tôn thờ Người, để đến gần Người, để hiến dâng hoàn toàn cho Người, và bước đi trên con đường an bình đầy ánh sáng.
Trong ngày áp lễ Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế trong khiêm hạ và khó nghèo, chúng ta hãy có lòng khiêm tốn và khó nghèo, như thế ta sẽ biết nhận ra và tiếp nhận Người trong lòng ta. Một ngôi sao chiếu sáng chúng ta: ta có biết rằng mình là những người khách xứng đáng tiếp nhận ngôi sao, như ngôi sao tiếp nhận ta không?
Người của Thiên Chúa, đó là đấng cứu chuộc mà chúng ta đang cần. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ chúng ta, nhưng Người không muốn cứu con người từ bên ngoài; và do đó Người đã làm người.
Đây là sứ điệp đôi mà bản văn tin mừng Matthêô trao cho ta. Một người xuất phát từ một dòng tộc dài, là đối tượng của lời hứa, đó là đấng cứu chuộc con người. Từ ngày Thiên Chúa tái lập liên hệ qua tổ phụ Ápraham cho đến bé gái thành Nagiarét tên là Maria, Thiên Chúa tự hiến mình một cách nhẫn nại cho công trình này, chuẩn bị ngày sinh hạ của Người Con Một. Gia phả trong tin mừng Matthêô là gia phả lòng thành tín của Thiên Chúa.
Tất cả những con người trong gia phả ấy vẽ nên lịch sử Israel. Họ là những người mang lời hứa. Những bất trung của nhiều người trong số họ càng làm sáng tỏ sự trung tín của Thiên Chúa. Từ một dân tộc tội lỗi xuất phát đấng cứu thế. Vì Người đến là để cứu độ tội nhân. Làm người, Người thuộc về dòng giống của họ và, từ bên trong dòng giống này, Người cứu rỗi họ, bằng cách mang lấy tội của họ: ‘Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên’. Nhưng Đấng trinh nữ sinh ra là do Chúa Thánh Thần. Nhịp điệu của gia phả bị cắt ngang. Nếu con người cần phải được cứu độ từ bên trong nhân tính của mình, thì duy chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều này. Và Matthêô nhấn mạnh nguồn gốc thần linh của Đấng cứu độ loài người: ‘Vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Thiên Chúa thật trung thành gấp nghìn lần hơn những gì con người có thể nghĩ.
+++
Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ.
Chỉ có sự chiêm ngắm mới có thể mới giúp ta cầu nguyện đạt đến chiều sâu của khung cảnh, của dấu chỉ. Mợt máng cỏ, một trẻ thơ, Maria và Giuse đang chiêm ngắm: ‘Quả thật Người là Vị Thiên Chúa mầu nhiệm’. Chúa Cha đấng duy nhất biết Chúa Con, trao ban cho ta Người Con để ta yêu mến và noi gương.
Bên ngoài hoàn toàn yên lặng. Chỉ có vài mục đồng, những kẻ bên lề xã hội…
Tất cả như muốn nói rằng: ‘Người đã chọn sự nghèo hèn, trần trụi. Người loại bỏ sự đánh giá của con người, xuất phát từ giàu sang, từ vinh quang, từ địa vị xã hội. Không có chút huy hoàng nào bên ngoài cả.
Người là Ngôi Lời hóa thành nhục thể, ánh sáng đã được bọc trong một thân xác. Người hiện diện trong thế giới mà chính Người không ngừng sáng tạo, nhưng Người lại ẩn mình trong đó. Vì sao Người xuất hiện cho ta cách ẩn tàng như thế? Theo cách diễn tả của Nicolas Cabasilas, cho đến lúc ấy Người là vị vua lưu đày, một khách lạ không có quê hương, đây Người trở lại nhà Người. Vì trái đất trước khi là của con người, đã là của Thiên Chúa. Trái đất này được sáng tạo do Người và cho Người.
Thiên Chúa làm người để con người có thể mang lấy Thần Khí (Athanasio di Alessandria)
Tình yêu của Người dành cho tôi làm xúc phạm đến sự vĩ đại của Người. Người nên giống tôi để tôi tiếp nhận Người. Người nên giống tôi để tôi mặc lấy Người.
Hãy tin thờ
Giữa thinh lặng sâu thẳm của vũ trụ và đêm tối, Ngôi Lời toàn năng, từ trời cao, đã rời bỏ ngai vàng.
Chỉ có thinh lặng mới tỏ bày vực thẳm của cuộc đời. Những công trình vĩ đại của Thiên Chúa đều là hoa quả của thinh lặng. Chỉ duy Thiên Chúa chứng nhận điều đó, và cùng với Người, những ai biết sống nội tâm, thinh lặng kính thờ ‘Thiên Chúa ẩn mình’, như Maria đã biết suy niệm những sự việc ấy trong lòng.
Lời vĩnh cửu là Ngôi Lời thinh lặng. Maria, mẹ Người, là người môn đệ của Ngôi Lời. Maria lắng nghe, chia sẻ. hiến dâng, chìm đắm trong vực sâu…Maria là sự thực hiện lời ngôn sứ Isaia: ‘Chẳng còn ai réo tên ngươi: ‘Đồ bị ruồng bỏ’!...Nhưng ngươi được gọi: ‘Ái khanh lòng ta hỡi’! Maria là nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Ngôi Lời đã cư ngụ trong lòng mẹ. Nơi mẹ, mọi người nhận ra số phận của chính mình: trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa, của Ngôi Lời ẩn mình. Bởi lẽ, nếu quả thật Thiên Chúa đã dựng nên bản tính nhân loại chỉ để nhận từ đây người mẹ hạ sinh, thì mỗi người, qua việc tiếp nhận âm thầm Ngôi Lời, được mời gọi trở nên đền thờ cho Ngôi Lời.
Ngôi Lời, ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, làm người trong cung lòng trinh nữ Maria để ban cho ai tin và đón nhận Người ‘quyền làm con cái Thiên Chúa’. Đây chính là sự hiệp thông hoàn hảo nhất. Nơi Ngôi Lời làm người, đứa trẻ thơ thành Bêlem ấy, con người được nhận làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn ở xa nữa, nhưng là cha của con người. Thiên Chúa không còn ở xa nữa, Người trở nên người anh em của con người.
Làm sao con người có thể đến với Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không đến với con người? Làm sao con người tự giải thoát khỏi sự chết, nếu không phải được tái sinh, nhờ đức tin, nhờ việc tái sinh mà Thiên Chúa ban cho, nhờ đó Người đã đến trong cung lòng Trinh nữ?
Con người lúc bấy giờ mặc lấy chiều kích đích thực của mình, vì chỉ là con người đích thực trong Thiên Chúa. Giờ đây, vị vua lưu đày đặt chân lại trên mặt đất đã được chuẩn bị sẵn cho Ngài, và đồng thời, con người tìm lại được ‘địa vị’ của mình, nhà đích thực của mình: Thiên Chúa.
Tôi sẽ loan báo những kỳ công của sự hiện diện này: Ngôi Lời làm người…Và Đức Giêsu Kitô, hôm qua, hôm nay và đến muôn đời vẫn là một…Thật diệu kỳ, không phải việc tạo dựng, nhưng là việc tái tạo…vì ngày lễ hôm nay là chính sự thành toàn của tôi, việc tôi trở về tình trạng nguyên thủy (trước khi nguyên tổ phạm tội)…Hãy tôn kính hang đá này: nhờ nó, mà tôi dù chẳng đáng là gì cả, đã được tràn đầy Thiên Chúa, chính Ngôi Lời. (Gregorio di Naziano)
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Chúc mừng! Hôm nay là Lễ Giáng Sinh và chúng ta muốn tổ chức lễ Giáng Sinh chứ không chỉ ăn mừng lễ Giáng Sinh. Tổ Chức lễ Giáng Sinh của Chúa là chào đón những điều ngạc nhiên của Thiên Đàng trên trần gian. Trải nghiệm Lễ Giáng Sinh có nghĩa là để bản thân rung động trước sự mới mẻ đến bất ngờ của nó. Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu không chỉ mang lại sự lấp lánh, quà tặng, thức ăn, nhà sưởi ấm, lễ Giáng Sinh có nghĩa là tràn ngập cảm giác hồi hộp thiêng liêng làm rung chuyển lịch sử: Thiên Chúa đã trở thành con trẻ vì chúng ta! Từ Tin Mừng Giáng Sinh này chúng ta muốn rút ra ba từ: chào đón, niềm vui và bình an.
Lời đầu tiên là Chào Đón. Chúa Giêsu không được mọi người chào đón, hôm qua cũng như hôm nay. Hài nhi này được sinh ra ở Bêlem nghèo khó, không phải ở Giêrusalem; không phải trong một ngôi nhà mà trong một hang động; không phải trên một chiếc giường êm ái mà trong một chiếc máng cỏ: “Không có chỗ cho họ”. Đó là thảm kịch của sự thờ ơ, của sự lạm dụng của kẻ quyền lực. Lễ Giáng Sinh mà chúng ta mong muốn mang lại cho chúng ta rất nhiều niềm vui đích thực, nhưng nếu sống một cách ít hời hợt và tiêu dùng hơn, rời khỏi nhà để cử hành, để tìm kiếm Chúa Giêsu Hài Đồng, hôm nay vẫn còn mất tích trên đường phố, ẩn náu trong trái tim của những người già cô đơn, của những người bệnh nằm liệt giường, của những người cô đơn, bị bỏ rơi, của những người đàn ông bị sỉ nhục vì nghèo đói, bị nhốt trong các trại tị nạn vô nhân đạo, bị bạo lực đè bẹp… Ít nhất là vào dịp Giáng Sinh, chúng ta nên nghĩ về ước muốn của Thiên Chúa: mỗi người được sinh ra phải có một nơi chào đón để cảm nhận được yêu thương và được quấn tã để che đi cái lạnh của sự thờ ơ. Nếu giữa loài người không có chỗ dành cho Hài Nhi Bêlem, thì đối với chúng ta, đã và sẽ luôn có một chỗ trong trái tim của Thiên Chúa, của vị Thiên Chúa đó, Đấng khôi phục phẩm giá và vẻ đẹp cho mọi người, ngay cả khi chúng ta, ngày nay, vẫn còn giết các con trẻ ngay từ trong bụng mẹ, tiêu diệt biết bao mạng sống con người trong các cuộc chiến do sự tàn ác và ích kỷ của mình. “Không có tình yêu, không có Thiên Chúa, con người trải qua địa ngục trên trái đất bởi vì “địa ngục ở bất cứ nơi nào không có Chúa Kitô” (Paul Claudel).
Lời thứ hai là Niềm Vui đích thực mà Ngài ban cho những ai chào đón “[Thiên thần nói với các mục đồng] “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít”. Thật là một niềm vui mừng cho sự ra đời này! Ánh sáng đã đến thế gian; Chúa đến thăm chúng tôi từ trên cao như mặt trời mọc. Niềm vui đích thực đến từ trên cao, nó đến từ việc được viếng thăm. Đó không chỉ là một cuộc viếng thăm, mà là một cuộc viếng thăm mang lại cho tôi một món quà: ơn cứu độ của Chúa Kitô. Ngài mang đến cho tôi niềm vui đích thực, nếu được đón nhận, sẽ xua tan khỏi cuộc đời tôi nỗi buồn mà tôi đã chìm đắm khi trải nghiệm nhiều niềm vui giả tạo và phù du của thế giới này, một thế giới đã không giữ được lời hứa của mình. Không, chúng ta không được sinh ra để trải nghiệm niềm vui phù du mà thế giới mang lại cho chúng ta, nhưng để sống trong niềm vui Kitô giáo, niềm vui vẫn tồn tại và đồng hành với chúng ta trong mọi khó khăn của cuộc sống. Đó là niềm vui Phục Sinh, như người Phục Sinh gọi, nói với chúng ta rằng mọi hoàn cảnh, dù khó khăn và đau đớn đến đâu, không bao giờ chứa đựng lời nói cuối cùng, bởi vì lời cuối cùng thuộc về Chúa Kitô Cứu Thế. Trong Ngài, sự viên mãn được loan báo cho chúng ta, sự cứu rỗi mà chúng ta đã tìm kiếm không đúng chỗ, nhưng chỉ có Chúa mới có thể và ban cho chúng ta.
Lời thứ ba là Hòa Bình. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu thương”. Vinh quang của Thiên Chúa trên các tầng trời cao nhất mặc lấy nhân tính và ngự xuống trần gian này để mang lại hòa bình đích thực cho những người Ngài yêu thương. Sự bình an này được ban cho mọi người vì Người yêu thương mọi người. Lời loan báo này không phải là một lời kêu gọi thiện chí của con người, mà là một lời loan báo vui mừng về tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta ngoan ngoãn mà vì chúng ta là những đứa trẻ. Đã bao nhiêu lần, không sống như những đứa trẻ mà như những đứa trẻ mồ côi, chúng ta đã cố gắng tự mình giải quyết mọi vấn đề đặt ra trước mắt, nghĩ rằng một khi vấn đề này được giải quyết thì chúng ta sẽ có được chút bình yên. Và chuyện này đã xảy ra từ khi nào vậy! Khi nào không có vấn đề gì trong cuộc sống? Sự bình an mà Chúa Giêsu mang đến cho trần gian không phải là sự bình an khi không có vấn đề, mà là sự bình an trong những vấn đề, bởi vì Ngài là sự bình an của chúng ta, bởi vì chúng ta biết rằng mọi hoàn cảnh, dù khó khăn đến mấy, cũng không bao giờ là lời cuối cùng, bởi vì Ngài là Đấng giải quyết mọi vấn đề, là bình an, niềm vui, tình yêu, sự sống, sự phục sinh ở với chúng ta. Chỉ sau khi chiêm ngắm tình yêu, lòng nhân từ và thiện chí của Thiên Chúa đối với chúng ta, chúng ta mới có thể xử lý được thiện chí của mình, tức là đáp lại, đón nhận Đấng mà chúng ta dâng hiến chính mình. Có hòa bình trong cuộc sống của chúng ta, có hòa bình trên thế giới? Chúng ta có tôn vinh Chúa bằng đời sống mình không? Ôi, tôi muốn phủ nhận những lời này của Gandhi biết bao, ngay cả khi tôi cay đắng nhận ra rằng chúng thường đúng: “Khi tôi nghe tiếng hát: “Vinh danh Thiên Chúa và Hòa bình trên trái đất” Tôi tự hỏi hôm nay vinh quang ở đâu được trao cho Thiên Chúa và nơi có hòa bình trên trái đất. Chừng nào hòa bình còn là một cơn đói không được thỏa mãn và chừng nào chúng ta chưa xóa bỏ bạo lực khỏi nền văn minh của mình thì Chúa Kitô sẽ không được sinh ra.”. Tôi muốn mọi người phủ nhận những lời này biết bao, tôi muốn mọi người nói bằng cuộc sống của mình biết bao điều này là: này, Chúa Kitô đã sinh ra trong cuộc đời chúng ta, bởi vì chúng ta muốn ánh sáng của Chúa Kitô, sự bình an của Chúa Kitô, chiếu tỏa qua chúng ta ở thế gian này mà chúng ta quên mất rằng Thiên Chúa đã sinh ra và chết vì chúng ta! Đây không phải là điều không tưởng, điều này, bất chấp mọi thứ, xảy ra trong nhiều trái tim, điều này xảy ra ở nhiều nơi, đây là điều chúng ta muốn xảy ra cho chúng ta đêm nay. Chúc mọi người Giáng sinh vui vẻ, Giáng sinh vui vẻ từ Chúa!
THÁNH LỄ RẠNG ĐÔNG
Chúa Kitô là sự bình an đích thực!
“Một ngày thánh đã đến với chúng ta”. Một ngày đầy hy vọng: hôm nay Đấng Cứu Độ nhân loại đã ra đời! Sự ra đời của một đứa trẻ thường mang lại tia hy vọng cho những ai đang hồi hộp chờ đợi nó. Khi Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá Bêlem, một “ánh sáng vĩ đại” đã xuất hiện trên trái đất; một niềm hy vọng lớn lao đã đến với trái tim của những người đang chờ đợi Người. Chắc chắn nó không “vĩ đại” theo cách của thế giới này, bởi vì lúc đầu chỉ có Đức Maria, Thánh Giuse và một số mục đồng nhìn thấy nó, sau đó là các Đạo sĩ, cụ Simeon, nữ tiên tri Anna: những người mà Thiên Chúa đã chọn. Tuy nhiên, trong sự ẩn giấu và im lặng của đêm linh thiêng đó, một ánh sáng huy hoàng và vượt thời gian đã được thắp lên cho mỗi người; niềm hy vọng lớn lao mang lại hạnh phúc đã đến trong thế giới: “Ngôi Lời đã trở thành nhục thể và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (x. Ga 1,14).
“Thiên Chúa là ánh sáng - Thánh Gioan nói” (x. 1Ga 1,5). Thật vậy, khi Chúa Giêsu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, chính Ánh sáng đã đến thế gian: “Thiên Chúa từ Thiên Chúa, Ánh sáng từ Ánh sáng”, chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Nơi Chúa Giêsu, Thánh Augustinô viết, Thiên Chúa mặc lấy những gì không phải là Ngài trong khi vẫn giữ lại những gì Ngài là: “quyền toàn năng nhập vào một thân xác trẻ thơ và không bị loại bỏ khỏi sự cai trị của vũ trụ” (cf Augustine, Serm 184, 1 on Christmas). Đấng tạo dựng con người đã trở thành con người để mang lại hòa bình cho thế giới, vì lý do này, trong đêm Giáng sinh, các Thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời / Bình an dưới thế cho người Chúa yêu” (x. Lc 2,14).
Vâng, “hôm nay ánh sáng huy hoàng đã chiếu xuống mặt đất” được mở đầu bằng bài hát này: “Hôm nay hòa bình đích thực đã đến với chúng ta” từ trời " (Bài ca nhập lễ). Thật vậy, chỉ có ánh sáng “vĩ đại” xuất hiện nơi Chúa Kitô mới có thể mang lại cho con người sự bình an ‘đích thực’: đây là lý do tại sao mọi thế hệ được kêu gọi đón nhận Ngài, để chào đón Thiên Chúa đã trở thành một người như chúng ta tại Bêlem.
Đây là Giáng sinh! Biến cố lịch sử và mầu nhiệm tình yêu, trong hơn hai ngàn năm đã thách thức con người nam nữ ở mọi thời đại và mọi nơi. Đó là ngày thánh mà “ánh sáng vĩ đại” của Chúa Kitô, Đấng mang lại hòa bình, tỏa sáng! Tất nhiên, để nhận ra Ngài, đón nhận Ngài, cần có đức tin, cần có sự khiêm tốn. Sự khiêm nhường của Đức Maria, người đã tin vào lời Chúa, và là người đầu tiên cúi xuống tôn thờ máng cỏ, Hoa Quả của lòng Mẹ; sự khiêm nhường của Thánh Giuse, một người công chính, có đức tin can đảm và thích vâng phục Thiên Chúa hơn là bảo vệ danh tiếng của mình; sự khiêm nhường của các mục đồng, những mục đồng nghèo khổ và vô danh, những người đã đón nhận lời loan báo của sứ giả thiên quốc và nhanh chóng đến hang Bêlem, nơi họ tìm thấy Hài Nhi mới sinh và đầy kinh ngạc, đã thờ lạy Người và ca ngợi Thiên Chúa (Tin Mừng). Những người bé mọn, những người có tinh thần nghèo khó: đây là những nhân vật chính của Lễ Giáng Sinh, hôm qua cũng như hôm nay; những người luôn đóng vai chính trong lịch sử của Thiên Chúa, những người xây dựng không mệt mỏi Vương quốc công lý, tình yêu và hòa bình của Người.
Trong sự thinh lặng của đêm Bêlem, Chúa Giêsu đã sinh ra và được những bàn tay săn sóc chào đón. Và giờ đây, trong lễ Giáng Sinh này của chúng ta, trong đó lời loan báo vui mừng về sự ra đời cứu chuộc của Người tiếp tục vang vọng, ai sẵn sàng mở cánh cửa tâm hồn cho Người? Hỡi những người nam nữ của thời đại chúng ta, Chúa Kitô cũng đến với chúng ta để mang lại ánh sáng, Người cũng đến với chúng ta để ban bình an! Nhưng ai sẽ thức canh trong đêm nghi ngờ và bất an với tấm lòng tỉnh thức và cầu nguyện? Ai đang chờ bình minh của ngày mới để duy trì ngọn lửa đức tin? Ai có thì giờ lắng nghe lời Ngài và để cho mình được bao bọc bởi sự quyến rũ của tình yêu Ngài? Đúng! Thông điệp hòa bình của Ngài dành cho tất cả mọi người; chính với mọi người, Người đến hiến thân mình như một niềm hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ.
Ước gì ánh sáng của Chúa Kitô, đến soi sáng mỗi người, cuối cùng sẽ tỏa sáng và trở thành niềm an ủi cho những ai đang chìm trong bóng tối của nghèo đói, bất công và chiến tranh.
“Tất cả các bạn hãy đến thờ phượng Chúa”. Cùng với Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng, với các đạo sĩ và vô số những người khiêm nhường tôn thờ Hài Nhi mới sinh, những người qua nhiều thế kỷ đã đón nhận mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta cũng vậy, hãy để ánh sáng của ngày này lan tỏa khắp nơi: hãy đi vào tâm hồn chúng ta, thắp sáng và sưởi ấm những ngôi nhà của chúng ta, mang lại sự thanh thản và hy vọng cho các thành phố của chúng ta, mang lại hòa bình cho thế giới. Xin Chúa, Đấng đã chiếu sáng khuôn mặt thương xót của Người trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta được thỏa mãn bằng niềm hạnh phúc của Người và biến chúng ta thành sứ giả của lòng nhân lành của Người. Amen!
THÁNH LỄ BAN NGÀY
Như mặt trời mọc từ trên cao, Đấng Cứu Thế đến thăm chúng ta.
Trong đêm thánh vừa qua, khi bóng tối còn bao phủ trái đất, Người đã giáng sinh cho chúng ta. Và chúng tôi, giống như những mục đồng, muốn lên đường tới Bêlem, thành phố của vua Đavít, để khám phá sự kiện được loan báo qua tiếng hát của các thiên thần. Khi bước vào hang, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên trước cảnh tượng hiện ra trước mắt.
Giờ đây, trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta lại có mặt ở đây để lặp lại tin vui: “Thiên Chúa của anh em đang hiển trị” ! Ngày nay, tại các thành phố của chúng ta, cũng như ngày xưa ở vùng núi Giuđêa bị sỉ nhục, một lời loan báo niềm vui cuối cùng cũng vang lên.
Một sứ giả - như chúng ta đọc trong sách Isaia - đến từ nơi xa xôi, từ Babylon, để loan báo sự trở về từ nơi lưu đày. Năm mươi năm trước họ đã ra đi trong nước mắt và đau khổ, bây giờ họ trở về trong niềm hân hoan. Đây là lý do tại sao người loan báo được gọi là “nhà truyền giáo” và thông điệp của ông được gói gọn trong ba từ ngắn gọn: hòa bình, tốt lành, cứu rỗi . Chính xác hơn, lời loan báo vui mừng, tức là “tin mừng”, được tóm tắt trong cách diễn đạt rất đơn giản này gửi đến Sion: “Thiên Chúa của ngươi ngự trị”.
Những lời này có ý nghĩa to lớn trong thời điểm này, khi ngay cả ở Thánh địa cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới đang còn diễn ra chiến tranh và hòa bình dường như luôn rất xa vời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa ngự trị: ở đâu? Thiên Chúa thực thi quyền tối cao của sự cứu rỗi: ở đâu?
Đây là sứ điệp Giáng Sinh, nằm trong lời mở đầu của Tin Mừng Thánh Gioan: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và ở giữa chúng ta; và chúng ta đã thấy vinh quang của Người, vinh quang như Con Một của Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý” . Do đó, chúng ta nói về một “xác thịt”, nhân tính thực sự của Chúa Giêsu thành Nazareth.
Xác thịt này giống hệt xác thịt của chúng ta, bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Tuy nhiên, đó cũng là sự hiện diện của Lời Chúa, sự mặc khải về vinh quang của Thiên Chúa. Đó là một nhân tính cụ thể, không hành động theo điều kiện của thế giới mà theo ý muốn của Thiên Chúa, trong đó “vương quốc của Thiên Chúa” được hoàn thành “giữa loài người”. Vì thế, nơi con người Chúa Giêsu có một điều gì đó mới mẻ: nơi Ngài mọi lời của các ngôn sứ đều trở thành Lời dứt khoát duy nhất; nơi Người toàn bộ luật Môsê trở thành chân lý chung cuộc của Thiên Chúa, sự mặc khải về tình yêu của Ngài. Đây là ý nghĩa của sự nhập thể.
Chúng ta cần Chúa đến và trị vì giữa chúng ta để chúng ta có thể hy vọng vào một thế giới mới. Nơi Chúa Giêsu Nazareth, chúng ta đã thấy vương quốc Thiên Chúa tạo ra điều gì khi Ngôi Lời trở nên xác thịt. Nơi Người, chúng ta thoáng thấy khuôn mặt huyền nhiệm của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta nhận ra khuôn mặt hoàn hảo của con người.
Thực ra, con người vốn được coi là “hình ảnh” của Thiên Chúa nhưng đã tự biến dạng nơi Ađam vì tội lỗi và cái chết. nên không còn là vinh quang, là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.
Vậy thì tìm đâu ra một con người đích thực, người thực sự phản ánh vẻ đẹp của Thiên Chúa, sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài? Câu trả lời của Kitô giáo là sự Nhập thể: Chúa Kitô, mặc lấy thân xác con người, và do đó, là hình ảnh của Thiên Chúa, với sự phục sinh đã khôi phục lại nét tương đồng với bản chất con người. Nơi Ngài, chúng ta nhận ra căn tính huyền nhiệm nhưng tuyệt vời của chúng ta là những con người được Thiên Chúa tạo dựng để vinh danh Ngài.
Nơi Chúa Giêsu, vẻ đẹp của Thiên Chúa lại được phản ánh nơi con người.
Tuy nhiên, việc cử hành Lễ Giáng Sinh không chỉ là việc loan báo Ngôi Lời nhập thể, mà còn là việc xác thịt đón nhận hồng ân trở nên giống Thiên Chúa trong thân xác của Chúa Kitô, Đấng đã trở thành mạc khải của Thiên Chúa, ơn gọi của chúng ta: “những ai đã đón nhận sẽ được ban sức mạnh để trở thành con Thiên Chúa”. Hãy lưu ý kỹ: không phải khả năng hiện hữu mà là khả năng trở thành, làm “con cái Thiên Chúa” không phải là một trạng thái tỉnh mà là một quá trình năng động, mở ra cho sự phát triển tiến bộ đến vô tận. Con người sinh bởi huyết nhục xuất phát từ ý muốn của con người, là cội nguồn của tội lỗi: ích kỷ, tham lam, kiêu căng, “di sản” chung của con người; nhưng giờ đây Đức Kitô ban cho con người khả năng có một nguồn gốc mới, không phải từ thế giới, nhưng từ Thiên Chúa.
Và nếu sự hiện hữu từ thế giới được định nghĩa là sự chống đối hoặc khẳng định bản thân, thì sự hiện hữu từ Thiên Chúa được định nghĩa là đức tin và tình yêu, như sự tự do và quà tặng. Trước thông điệp này của Chúa, sự cứu rỗi chỉ còn là nỗi buồn trước phản ứng thờ ơ hoặc thù địch của con người: “Ngài đã ở trong thế gian và thế giới được tạo nên nhờ Ngài, thế nhưng thế gian đã không nhận biết Ngài. Ngài đã đến giữa dân Ngài, nhưng dân Ngài không chào đón Ngài”.
Một nghịch lý huyền nhiệm và bi thảm, trong bối cảnh kế hoạch của Thiên Chúa, làm cho sức mạnh chiến thắng của ân sủng Ngài càng nổi bật hơn. Vâng, bởi vì, bất chấp mọi sự, “Thiên Chúa yêu thương đã yêu thế gian đến nỗi - (thế giới thù địch và nổi loạn này!) - trao ban Con Một của mình”.
Và ngay cả khi ánh sáng buộc phải đối đầu với thế lực tiêu cực của bóng tối, thì bóng tối cũng không thể chiến thắng được nó. Thực sự là ‘ánh sáng’ đã tỏa sáng vào trong bóng tối.
Giáng sinh thực sự là một phản ánh nhỏ của ánh sáng đó, trong đó mỗi người chúng ta có thể khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và nhìn thấy con đường chúng ta phải đi để đến được Vương quốc của Ngài.
Được chiếu sáng bởi ánh sáng mới xuất hiện trên bầu trời tâm hồn chúng ta, vậy chúng ta hãy tìm cách để chúng ta cũng là ánh sáng trong Chúa, bước đi trong ánh sáng và “do đó hãy cư xử như con cái ánh sáng” (Eph 5:8).
Ngày II Tuần Bát Nhật GS
Kính thánh Stêphanô
Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi kitô giáo, là một trong bảy phó tế đầu tiên, nhiệm vụ của ngài là đặt mình phục vụ Giáo hội và các tông đồ. Như người tôi tớ của Đức Kitô, Stêphanô muốn nên giống Chúa của mình, và trong giây phút cận kề cái chết, ngài đã thật giống Chúa. Hình như tin mừng ngày hôm nay được viết về thánh Stêphanô. Khi ngài đứng trước Thượng Hội Đồng, Thánh Thần đã linh hứng và ngài đã ăn nói cách can đảm; ngài không chỉ chối bỏ những điều người ta tố cáo mà còn lên án tố cáo lại những kẻ tố cáo ngài. Ngài đăm đăm nhìn như đang thấy Chúa, mặt ngài rạng rỡ như mặt thiên thần, phản ánh vinh quang của Đức Kitô, đang ở trong ngài. Sự giống nhau giữa Stêphanô và Chúa của ngài không phải là một việc bên ngoài: trong giây phút sắp chết Stêphanô cho thấy những thái độ sâu thẳm trong lòng ngài, cầu nguyện cho những kẻ giết hại ngài được tha thứ, lời cầu nguyện mang lại hoa quả sau này là sự trở lại của thánh Phaolô. Stêphanô có nghĩa là ‘vầng hào quang’, liên quan đến hào quang của việc tử đạo sau khi đã sống một cuộc đời trung tín phục vụ Đức Kitô.
Ngày III Tuần Bát Nhật GS
Thánh Gioan Tông Đồ
Hôm nay ta cử hành tình yêu của Đức Kitô nơi một trong những môn đệ thân tình của Người nhất. Đức Giêsu đã trở thành người bạn thân tín nhất của Gioan và đã chia sẻ với ông niềm vui và đau khổ, là vị Thiên Chúa mà Cựu Ước gọi là đấng mà con người không thể nhìn thấy mà không phải chết. Ngày qua ngày, Gioan đã nhìn Đức Giêsu và đã nhận thấy nơi Người một vị Thiên Chúa mà nhờ sự nhận biết và liên hệ, người ta được sự sống. Ông đã nghe tiếng Người, những giáo huấn và lời xuất phát từ Chúa Cha. Ông đã ăn uống cùng với Người, cùng đồng hành với Người trên mọi nẻo đường, vì tình yêu dẫn đưa ông không phải đến thành công mà đến cái chết: ông luôn nhận biết rằng đó chính là con đường sự sống.
Bài tin mừng hôm nay, ta thấy ‘người môn đệ Chúa yêu’ chạy hết sức mình, vì được thúc đẩy bởi tình yêu, đến nơi đặt xác Chúa. Ông nhìn thấy những băng vải và khăn liệm – dụng cụ của sự chết – được Chúa của sự sống để lại: những thế lực của sự tăm tối đã bị chiến thắng ngay trong ngôi mộ trống, và trong lòng Gioan nhận ra nơi sự sống lại của Thầy, chiến thắng của tình yêu, khởi đầu hừng đông của đức tin.
Ngày IV Tuần Bát Nhật GS
Các Thánh Anh Hài
Trên một đỉnh đồi vùng Bêlem có một pháo đài hoang phế: đó là ngôi mộ của Vua Hêrôđê. Nơi sinh hạ của Đức Kitô ngược lại chỉ là một hang đá nghèo hèn. Cả hai nơi khác nhau nói lên hai cá tính của hai vị vua khác biệt nhau; ta cần chọn một trong hai: vị này kiêu căng tàn bạo, vị kia nhỏ bé và khiêm cung. Hêrôđê tìm cách loại trừ bất cứ địch thủ nào, ngay chính những người trong gia đình của ông cũng không ngoại lệ. Do đó, lòng của ông chai cứng bao năm trong tội lỗi, không cảm thấy thương hại chút nào những hài nhi vô tội, mà hôm nay ta kính nhớ.
Cái chết của của các vị đặt ta trước một nghịch lý: họ chết thay cho Đức Kitô, Đấng đến thế gian để chết cho họ! Đức Kitô, Hoàng Tử Bình An, đã đến giao hòa thế gian với Thiên Chúa, để mang ơn tha thứ cho tội nhân và cho họ tham dự vào sự sống thần linh của Người. Ta có thể chắc chắn rằng, cho dù không cần sự tha thứ, các Anh Hài vô tội đã mất sự sống non nớt của mình vì Đức Kitô và vì tin mừng, là những người đầu tiên đi vào trong niềm vui của đời sống vĩnh cửu.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê