Chúa Nhật XV B TN
Qua các sứ giả, Thiên Chúa đã chuẩn bị nhân loại, trong tiến trình lịch sử lâu dài, cho sự xuất hiện của Con Ngài và mạc khải ơn cứu độ mà Người Con mang đến. Khởi đầu với dân Israen, tình yêu cứu chuộc của Ngài đã mở rộng đến tất cả mọi người. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu kêu gọi Nhóm Mười Hai để hình thành hạt nhân của dân Chúa cách dứt khoát và biến họ thành những cộng tác viên của Ngài. Họ có nhiệm vụ vượt thắng cái ác, chữa lành và cứu những người tin vào sứ điệp của họ. Chỉ có một phần nhỏ dân Israel tin vào Chúa Giêsu và những người mà Ngài sai đến. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu lại sai các môn đệ và gia tăng sứ mệnh và quyền năng cho họ. Kể từ đó, các sứ giả của Thiên Chúa đã đi đến tất cả mọi dân tộc để trao ban cho mọi người sự tha thứ của Thiên Chúa và sự sống mới.
Nhưng chỉ có một phần nhỏ nhân loại đã nghe lời mời của Thiên Chúa và đã tìm thấy đức tin vào tình yêu và sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngày nay, khi các ý thức hệ hiện đại của chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội, vốn là những học thuyết sai lầm về ơn cứu độ, đã bị vạch mặt, Tin Mừng đã được thực hiện giữa nhiều dân tộc. Và Kitô hữu chúng ta, theo một cách mới, có bổn phận làm chứng tá: qua lời cầu nguyện và cam kết cá nhân của chúng ta. Không chỉ tương lai của nhân loại mà còn của cộng đồng giáo hội và số phận của mọi Kitô hữu tùy thuộc vào những chứng tá này.
Nhân chứng đáng tin cậy
Tin Mừng Chúa Nhật tuần này bắt đầu như thế này: ‘Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai và sai từng hai người đi’. Qua những lời này cho thấy điều quan trọng: ‘Ngài bắt đầu sai họ’. Đó là sự khởi đầu của việc sai các sứ đồ. Cho đến bấy giờ, chỉ có Ngài, Chúa Giêsu, là người rao giảng Nước Trời. Các môn đệ đi theo Ngài, lắng nghe, học hỏi, có thể nói, học nghề. Bây giờ họ được sai đi. Nếu cho đến bấy giờ động từ mà Chúa Giêsu sử dụng thường xuyên nhất, liên quan đến các môn đệ, là: ‘Hãy đến’, thì bây giờ là ‘Hãy đi!’. Từ việc chọn gọi chuyển sang việc sai đi.
Nhưng lời mời gọi ‘Hãy đi!’ của Chúa Giêsu dành cho ai? Người ta thường nghĩ đến các tông đồ và, ngày nay, nghĩ đến những người kế vị các ngài: Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục, các Tu sĩ. Điều này liên quan đến họ, không liên quan đến giáo dân chúng ta, nhiều người nghĩ thế. Thật sai lầm! Thực ra, ngay từ đầu, với nhiệm vụ của các nhân chứng chính thức và có thẩm quyền, Chúa Giêsu sai các tông đồ. Nhưng họ không phải là những người duy nhất. Họ phải là những người hướng dẫn, những người làm linh hoạt người khác, trong sứ mệnh chung. Nói thế chẳng khác nào nói rằng một cuộc chiến chỉ có thể được tiến hành với các tướng lĩnh và thuyền trưởng, không có binh lính; hoặc bạn có thể thành lập một đội bóng đá, chỉ với một huấn luyện viên và trọng tài!
Sau khi sai các Tông Đồ, Chúa Giêsu, [chúng ta đọc trong Tin Mừng Luca], ‘đã sai bảy mươi hai người khác và sai họ từng người một đến trước Người đến mọi thành phố và nơi Người sắp đến’ (x.Lc 10:1). Bảy mươi hai môn đệ này có lẽ là tất cả những người mà Ngài đã tập hợp cho đến thời điểm đó, hoặc ít nhất là tất cả những người sẵn sàng cam kết nghiêm túc với Ngài. Do đó, Chúa Giêsu sai ‘tất cả’ các môn đệ của Ngài. Ngài cần tất cả mọi người. Hay đúng hơn, Ngài làm cho mọi người vinh dự trở thành sứ giả của Ngài, ‘tiền hô’ của Ngài, nghĩa là, những người đi trước Ngài và chuẩn bị con đường cho Ngài ở những nơi Ngài sắp đến.
Hãy tưởng tượng nếu ngày nay người ta được yêu cầu trở thành những nhà truyền giáo và chứng nhân của Chúa Giêsu. Câu trả lời của họ chắc chắn sẽ là thế này: " đi nhà thờ vào Chúa nhật chẳng phải đã đủ lắm rồi sao? Bây giờ chúng tôi lại được yêu cầu trở thành sứ giả của Chúa Giêsu nữa sao? Nhưng còn các linh mục, các vị có hiểu ý nghĩa phức tạp của việc có một gia đình và sống trong một thế giới đầy khó khăn không...?’
Nhưng trở thành nhà truyền giáo không phải là một gánh nặng thêm trong cuộc sống; Đó là một niềm vui, một sự trợ giúp khiến bạn quên đi tất cả các gánh nặng hoặc giúp bạn đón nhận chúng tốt hơn. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã hứa gấp trăm lần ở đời này cho những ai đặt mình hoàn toàn tuân theo ý của Ngài cho Nước Trời.
Do đó, giáo dân là nguồn năng lượng của Kitô giáo. Nói cách đơn giản, là một giáo dân, được thấm nhuần Tin Mừng, bây giờ mình gieo ướp Tin mừng những người khác và, vì các Kitô hữu giáo dân không phải là vài chục ngàn như hàng giáo sĩ, nhưng hàng tỉ người, họ thực sự có thể đóng một vai trò quyết định trong việc truyền bá ánh sáng của Tin mừng trên toàn thế giới.
Nhưng bằng cách nào – ‘làm thế nào’ - để truyền giáo? Chính Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời. Ngài không nhấn mạnh quá nhiều vào những gì người ta phải nói, như về cách ‘người ta phải như thế nào’ để loan báo Tin Mừng. Tác giả Tin Mừng lưu ý rằng Chúa Giêsu luôn sai họ đi từng hai người một. Vì sao Ngài sai họ ‘từng hai người một’ –Thánh Grêgôriô Cả giải thích – để khắc sâu lòng bác ái, bởi vì họ – Đức Thánh Cha nhắc lại – là hai người, họ chắc chắn được mời gọi để đưa ra bằng chứng về tình yêu hỗ tương: ‘Cứ dấu này, mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau’ (x. Ga 13:35). Vậy thì, lời loan báo Thiên Chúa là tình yêu có thể có giá trị gì, khi nó được thực hiện bởi một cộng đoàn bị chia rẽ, nơi mọi người chiến đấu chống anh em của mình? Ai sẽ có thể tin vào Tin Mừng nếu các Kitô hữu kiên quyết chối bỏ nó bằng cuộc sống của họ? Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng bài giảng đầu tiên phải là sự hiệp nhất của chúng ta: ‘để chúng nên một... để thế giới tin tưởng’. Thật không may, chúng ta hãy nhận ra điều này, có bao nhiêu sáng kiến của việc tông đồ không thuyết phục được bất cứ ai vì chúng bắt đầu từ các Kitô hữu chia rẽ nhau, bất đồng, bất thuận và thiếu bác ái!
Vào thời kỳ bách hại xưa, các Kitô hữu không thể rao giảng Chúa Kitô một cách công khai, nhưng một tác giả thời đó nói với chúng ta rằng những người ngoại giáo đã bị đánh động bởi tình yêu mà các Kitô hữu dành cho nhau và tự nhủ, đầy kinh ngạc: ‘Hãy xem họ yêu thương nhau biết dường nào!
Vâng, chúng ta đã tìm hiểu ai phải rao giảng Tin Mừng (tất cả mọi người, không chỉ các linh mục) và làm thế nào để truyền giáo (với tình yêu, với chứng tá và khi có thể cũng bằng cả lời nói). Nhưng truyền giáo ở đâu? Những ngôi làng và những nơi mà Chúa Giêsu gửi chúng ta đến ngày nay là gì? Những nơi Chúa Giêsu gửi chúng ta đến là nơi làm việc, gia đình, bạn bè... Những ai tin Chúa không thể không nói về Ngài. Nhưng nhiều kitô hữu thì không! Vì sao? Vì sợ hãi? Vì ngại ngùng? Để bảo mật? Không cần những món quà lớn lao của con người để loan báo Tin Mừng, cũng không đòi hỏi một nền văn hóa vĩ đại. Đức tin, chỉ cần đức tin. Vì vậy, nếu nhiều người không nói về Chúa, đó là vì họ không có gì để nói: và nếu họ không có gì để nói, điều đó có nghĩa là họ không biết Chúa. Ai thực sự tin, hãy công bố đức tin của mình; những người tin, là những người truyền giáo, và trở thành những người truyền giáo có nghĩa là không gắn bó với bất cứ điều gì hoặc bất cứ ai mà chỉ với Đức Kitô: ‘Và Ngài truyền lệnh cho họ không được mang theo bất cứ thứ gì ngoài một cây gậy cho cuộc hành trình: không phải bánh mì, cũng không phải túi, cũng không phải tiền bạc trong thắt lưng của họ; nhưng chân đi dép và không mặc hai chiếc áo.’ Qua nhiều thế kỷ, cũng như ngày nay, Kitô hữu chúng ta đã gắn bó với uy tín, với những người có quyền lực, với tiền bạc. Và chúng ta đã trở nên mờ đục, không đáng tin cậy lắm vì chúng ta không phải là những người tràn đầy niềm tin. Nó có thể có giá trị gì để loan báo Tin Mừng khi chúng ta cư xử và sống theo cách trái ngược với Lời Chúa?
Và cuối cùng Chúa Giêsu nói: ‘Nếu một nơi nào đó họ không chào đón bạn và lắng nghe bạn, hãy ra đi và giũ bụi dưới chân bạn như một chứng tá cho họ’. Giũ bụi chân là một cử chỉ mà người Do Thái thực hiện khi họ trở về Palestine từ vùng đất của những người ngoại giáo, để chỉ ra rằng họ không chia sẻ sự lựa chọn của những người ngoại giáo. Do đó, cử chỉ này không nên được coi là một lời nguyền, mà là một mời gọi. Đó không phải là một cử chỉ khinh miệt, nhưng là một lời mời gọi xem xét tính nghiêm trọng của thái độ của những người từ chối Chúa Kitô. Do đó, giũ bỏ bụi không phải là một cử chỉ chống lại người khác, mà là có lợi cho người khác: để họ nhận thức được những gì họ đang làm.
Và vì vậy, trong những thời điểm khó khăn, ngay cả khi chúng ta không được hiểu, khi chúng ta bị từ chối, bị loại bỏ, nếu họ không lắng nghe chúng ta, chúng ta không nản lòng và chúng ta vẫn bình an bởi vì làm điều tốt không phải lúc nào cũng có nghĩa là thành công trong thế giới này.
Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những chứng nhân đáng tin cậy cho Tin Mừng của Ngài bằng cách sống bác ái và yêu thương nhau. Amen.
Thứ Hai tuần XV Tn
Phần thưởng theo Chúa
Bài đọc tin mừng trình bày, một đàng những đòi hỏi gắt gao, đàng khác những lời hứa ngọt ngào cho những ai theo Đức Giêsu. Có thể gợi lên trong chúng ta những lời thơ của Paul Claudel, qua đó thi sĩ tự hỏi làm thế nào mà ân sủng của Chúa đến với chúng ta. Và Ông trả lời: ân sủng đến một cách lôi cuốn, bình dị nhưng cũng mạnh mẽ như ngọn lửa đốt cháy. Một bài thơ Claudel viết tặng những bệnh nhân phong của một bệnh viện, với ý khích lệ họ: đau khổ có thể là một ân sủng, khắc nghiệt, tàn bạo nhưng xuyên thấu nội tâm, như mũi gươm.
Đức Giêsu nói: Thầy đem đến gươm giáo, sự chia rẽ, thập giá, mất mạng sống. Một tình yêu theo gương của Đấng bị đóng đinh. ‘Thầy không đến để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo…Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy; ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy’.
Nhưng phần thưởng thật tràn đầy: ai đón tiếp các môn dệ của Ngài, ai đón tiếp những kẻ bé nhỏ này, là đón tiếp chính Ngài, là đón tiếp Chúa Cha. Tin mừng thánh Gioan viết: ‘Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy’. Không có gì mất mát: cho dù là một chén nước lã, trao ban vì tình yêu Chúa, cũng có phần thưởng.
Hai việc mà chúng ta cần đón nhận để trở nên môn đệ đích thật của Đức Giêsu: đau khổ và lời hứa ban niềm vui trong tâm hồn.
+++
‘Ai tìm giữ mạng sống mình thì sẽ mất’.
Đức Giêsu đảo lộn hoàn toàn những hy vọng về hạnh phúc của ta. Hay nói đúng hơn Ngài đã sửa đổi điều gì? Kẻ không thấy người khác mà chỉ thấy chính mình, kẻ đi tìm hạnh phúc riêng mình, kẻ theo đuổi những mục đích riêng mình, kẻ muốn cụ thể hóa chúng bất cứ giá nào, kẻ ấy sẽ không gặp được điều họ tìm. Thay vì tự thể hiện mình, họ đánh mất chính mình. Nhưng kẻ học cách không đặt cả cuộc đời mình bám chặt vào hạnh phúc riêng, mà ngược lại biết quên mình để có thể cống hiến cách quảng đại chính mình và những khả năng của mình, chính mình và thời gian của mình, kẻ ấy sẽ gặp được sự sống. Sau cùng có thể nói rằng: Cuộc sống của tôi thật tốt đẹp!
Chính Đức Giêsu đã sống như thế. Ngài đã tự hỏi: Những người khác đang cần gì? Làm sao để tôi nên có ích cho người khác? Ngài đã đến với những bệnh nhân, những người tàn tật, những người bị bỏ rơi. Ngài quan tâm đến nỗi khổ của họ. Nỗi đau của tha nhân cũng là nỗi đau của chính Ngài. Trong nước mắt và trong lo sợ, Đức Giêsu đã đón nhận nỗi khổ đau của mình. Ngài đã chấp nhận mang thập giá của Ngài cho đến cùng. Ngài đã làm tất cả những điều ấy vì niềm tin tưởng sâu xa này: Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thật sự ban tặng cho cuộc sống của ta sự trọn hảo.
Thứ ba Tuần XV Tn
Giải pháp của Thiên Chúa
Bài đọc 1 cho ta một bài học khi gặp những đau khổ và nghịch cảnh, bài đọc 2 cho ta một bài học khi gặp thuận lợi.
Trong bài sách Xuất Hành mỗi bước đi đều gặp khó khăn. Người do thái, sống trong cảnh nô lệ, đang chịu cảnh diệt vong vì lệnh truyền giết các nam nhi: mất tất cả. Sau khi người mẹ không còn có thể giấu kín được đứa con trai mình nữa, đã thả nó trôi theo dòng nước sông Nil, và cái chết là chắc chắn. Thế nhưng, nó được cứu sống nhờ con gái của nhà vua Pharaon và được giáo dục như một đứa trẻ Aicập. Lớn lên, anh ta trở nên người bảo vệ cho anh em bị đàn áp của mình, hé mở bình minh cho niềm hy vọng, nhưng rồi lại phải trốn chạy: hình như Đức Chúa bỏ rơi dân tộc của Ngài. Việc Môsê sinh hạ là khởi điểm cho việc giải thoát. Lúc ấy chẳng ai biết gì về đứa trẻ cứu tinh này, dù nó sẽ là vị thủ lĩnh Thiên Chúa chọn để mang lại tự do cho dân ngài.
Trong mọi nghịch cảnh, Thiên Chúa đòi chúng ta phải có niềm tin phó thác vào Ngài, luôn hiện diện và hành động giữa chúng ta và chắc chắn ngài chuẩn bị để giải quyết những khó khăn, giải pháp luôn tích cực vì xuất phát từ tình yêu của Ngài. Thập giá của Đức Giêsu là khởi đầu cho cuộc sống mới.
Trong tin mừng, ngược lại, nói đến sự can thiệp của Thiên Chúa cách lạ thường và hiển nhiên: Đức Giêsu đề cập đến các thành phố ‘nơi đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm’, nơi nhiều khó khăn lớn được giải quyết, nhưng họ vẫn không sám hối. Khi mà tất cả hình như tốt đẹp, an lành, không có đối nghịch, chúng ta cần tự hỏi phải chăng chúng ta đã đáp lại lòng Chúa mong muốn, phải chăng những ân huệ Chúa ban sinh ích lợi nơi chúng ta, phải chăng chúng ta biết lợi dụng chúng để sinh lợi ích cho anh em và cho vinh quang Thiên Chúa.
+++
Lời quở trách của Đức Giêsu bao gồm hai hình ảnh được đặt song song với nhau. Trước hết hai thành phố vùng Galilêa là Corôzain (các tin mừng không thấy nói đến phép lạ nào được thực hiện nơi đây) và Bétsaiđa (Đức Giêsu chữa lành người mù, kêu gọi các môn đệ đầu tiên) được sánh ví với hai thành phố ngoại giáo, Tirô và Siđon. Rồi đến Caphanaum (là sân khấu hoạt động của Đức Giêsu) được so sánh với Sôđôma, thành phố bị Thiên Chúa hủy diệt do đời sống vô luân của dân cư (St 18,16-19,29).
Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự chống đối giữa hai hình ảnh này: quả thực các thành phố mang tiếng xấu không hư hỏng giống như các thành phố không đón nhận giáo huấn của Đức Giêsu và khước từ tin vào Ngài dù thấy các phép lạ của Ngài. Đức Giêsu chán ngán về các thành phố này vì chúng không muốn nhận biết những tỏ hiện quyền năng của Ngài như dấu chỉ từ Thiên Chúa. Chúng không muốn tin rằng Đức Giêsu là đấng cứu thế đã được hứa ban, Đấng Cứu Chuộc con người. Bởi lẽ họ đã từ chối tin, nên trong ngày phán xét họ sẽ bị liệt vào số tệ hại nhất trong số quân ngoại đạo. Điều này có nghĩa là, khi nước Thiên Chúa xuất hiện, vào ngày sau cùng, những kẻ không tin vào quyền năng Thiên Chúa đáng bị đoán phạt.
Mọi người đều có thể nhìn thấy nơi Đức Giêsu hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng họ đã không hoàn toàn tin vào Ngài, họ sẽ bị luận phạt. Nếu họ không biết lợi dụng thời gian hôm nay để có lựa chọn đúng đắn, họ sẽ chẳng thuộc về dân của Thiên Chúa trong ngày sau cùng.
+++
Tin vào Lời
Trước sự đe dọa xâm lăng của các dân xung quanh, Achaz, vua Giuđa khiếp đảm, lo sợ. Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia đến tỏ cho ông biết các âm mưu của quân địch chẳng là gì cả. Giêrusalem sẽ không bị chiếm, cho dù Éphraim đang liên minh chống lại Giuđa. Vị ngôn sứ kêu mời lòng tin vào những dự tính của Thiên Chúa, nếu không do bởi Thiên Chúa thì lời loan báo của ông sẽ chẳng có hiệu quả gì.
Đức Giêsu trong đoạn tin mừng cũng kêu mời dân các thành phố, nơi ngài thực hiện biết bao phép lạ chữa lành, phải có lòng tin. Sự cứng lòng tin của các cư dân làm cho họ chịu trách nhiệm trước lời của Thiên Chúa vang vọng vào tai của họ không như lời của một vị ngôn sứ, nhưng là lời của Ngôn Sứ, Đức Giêsu. Trước bao nhiêu công việc làm như thế, có lẽ các thành phố ngoại giáo Tirô và Siđon biết hối cải từ lâu rồi, vậy mà Caphanaum và những nơi khác vẫn cứng lòng tin.
Lời Chúa nói với ta hôm nay đang sống giữa lòng thế giới kitô và có lẽ ta không thể hiện trong đời sống sự phong phú thiêng liêng mà bí tích thanh tẩy ban cho ta, có lẽ ta chán ngán trước bao nhiêu ân sủng. Vì thế mà khi ta thấy một tân tòng sống nhiệt thành đời sống kitô, ta hầu như cảm thấy ghen tị và khó chịu. Đó là trường hợp thánh Phaolô bị nghi ngờ và cảm thấy sự lạnh nhạt của các anh em nghi ngại về sự trở lại của thánh nhân. Hãy cầu xin Chúa ban cho ta một tâm hồn rộng mở, quảng đại, có khả năng đón nhận ân huệ Thiên Chúa, và vui mừng trước sự trở lại của biết bao nhiêu người đang sống bên ngoài Giáo hội.
Thứ Tư Tuần XV Tn
Biết Chúa
Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải tất cả những điều đó cho những người bé mọn. Thiên Chúa không quan tâm đến sự vĩ đại, sự thông thái và khôn ngoan của con người. Ngài yêu thương những người bé mọn, những kẻ rốt cùng, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Đức Giêsu, trong cuộc đời trần thế, luôn đi tìm những kẻ rốt cùng, những người đau ốm để chữa lành, những người bị quỷ ám để giải thoát, những người ưu phiền để loan báo cho họ niềm hy vọng chính Ngài mang đến thế gian.
Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta muốn được gọi là kitô hữu đích thực, chúng ta cần phải cư xử giống như Chúa. Là điều không phải lúc nào cũng dễ dàng, do ảnh hưởng xã hội, ảnh hưởng của giáo dục, ảnh hưởng của những người xung quanh. Nhưng chính trong những lúc khó khăn đó, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta cách đặc biệt. Chúng ta cần phải cố gắng luôn để hiểu biết Ngài, cho dù, như tin mừng hôm nay nói đến, chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu biết Ngài cách đầy đủ. Chỉ có Cha biết Con và Con biết Cha. Biết không phải chỉ nghe người khác nói về Ngài, nhưng bằng chính những trải nghiệm của riêng mình, bằng đời sống thân tình với Ngài. Ngài biết rõ mỗi một người trong chúng ta như người mục tử biết các con chiên của mình. Nếu chúng ta yêu mến Ngài, Ngài sẽ tỏ mình cho chúng ta vì Ngài luôn gần bên những ai tìm kiếm Ngài với lòng chân thành.
+++
Trong tâm tình cảm tạ, Đức Giêsu hướng về Cha mình, khác với cách thức trong kinh Lạy Cha. Ngài thưa với Đấng là Chúa Tể vũ trụ càn khôn bởi lẽ Người là đấng nắm trong tay định mệnh của thế giới. Người đã ban Đức Giêsu làm Đấng Cứu Thế cho nhân loại và trao cho Ngài quyền năng trên trời dưới đất.
Mọi sự, nghĩa là chương trình của Ngài, Ngài tỏ cho người này nhưng lại giấu cho người khác. Không phải những người thông thái và khôn ngoan –các nhà thần học và chuyên viên Kinh thánh, giáo sư nghĩ mình được đặc ân nắm giữ chân lý- là những người tin vào Thiên Chúa. Không, Chúa Cha tuyển chọn những con người vô nghĩa, những kẻ bé mọn, quy tụ quanh Đức Giêsu. Chính họ, được giải thoát khỏi gánh nặng của những giáo huấn nhân loại, mà ngài xét là có khả năng làm cho các lời nói và việc làm của Đức Giêsu sinh hoa trái, những sứ điệp mang lại sự giải thoát cho đời họ. Chính họ nhận biết căn tính của Đức Giêsu và làm chứng rằng Ngài thuộc về Thiên Chúa.
+++
Dân Israel sống xa cách Thiên Chúa. Người đã dùng dân Atsua để trị tội dân của Người. Nhưng quốc gia này kiêu căng như chính bởi sức mạnh của riêng họ mà họ của thể tiến hành cuộc xâm lăng trừng phạt. Thêm vào đó là sự hung bạo và ý muốn tiêu diệt của họ. Thiên Chúa không thích những tình cảm này và lệnh cho ngôn sứ tiên báo sự trừng phạt, ôn dịch sẽ tàn sát dân quân.
Lời Chúa giúp ta suy tư. Là lời cảnh báo cho những ai nắm giữ quyền hành và có trách nhiệm hướng dẫn người khác? Nếu quyền hành đến tự Thiên Chúa, quyền hành đó không được thi hành để khẳng định bản thân mình với tất cả những lầm lỗi và đam mê xấu, nhưng phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ: người quản lý tốt xứng đáng lời ca tụng. Hiểu được chân lý này và hướng dẫn cuộc đời mình theo đó không phải là điều dễ. Chính ân sủng của Chúa cùng với lời cầu nguyện và lòng ước ao nhận biết những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Theo lời của tin mừng việc thấu hiểu này đòi hỏi phải từ bỏ tính kiêu căng để nên bé nhỏ không phải chỉ trước mặt người khác mà ngay chính trong lòng ta. Như thế ta sẽ đứng về số những người được Chúa soi sáng để thấu hiểu mầu nhiệm của Người, đấng tỏ mình cho kẻ bé mọn. Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong sự bé nhỏ để được Chúa mạc khải những điều cao trọng. Là điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, trí chưa từng tưởng tượng nổi, dành riêng trên trời cho những ai yêu mến Người.
Thứ Năm tuần XV Tn
Ta là Đấng Hiện Hữu
Bài đọc 1 mạc khải cho ta về mầu nhiệm Thiên Chúa, và các nhà chú giải không ngừng tìm hiểu ý nghĩa chính xác của thành ngữ này, họ tranh luận để biết câu tiếng do thái ‘éheye asher éheye’ có nghĩa là gì. ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’. Có nhiều cách dịch khác nhau, nhưng Thiên Chúa tự gọi tên mình như Đấng Hiện Hữu: Đấng Hiện Hữu nói với dân Ítrael, Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em. Quả thật đây là mạc khải sâu xa nhất về Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể được gọi tên như một vật; chính Ngài tự gọi tên mình trong cuộc sống chúng ta, chính Ngài làm cho chúng ta cảm nhận sự hiện diện của ngài, chính Ngài mạc khải hữu thể của ngài: Đấng Hiện Hữu. Người ta không thể nói về Thiên Chúa bằng cách khác, cần phải để Ngài nói về chính Ngài. Và xuyên suốt cuộc sống Ngài luôn nói với ta như đã nói với Môsê: Ta là Đấng Hiện Hữu.
Ta Hiện Hữu. Điều này đặt Thiên Chúa vừa gần lại vừa xa chúng ta. Thật xa vì xác quyết này : ‘Ta Hiện Hữu’ đi ngược lại với điều chúng ta có thể nói về chính mình chúng ta. Chúng ta chỉ có thể nhận ra các giới hạn của hữu thể chúng ta và luôn được mời gọi để nói: tôi không hiện hữu. Thật lòng, chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta không hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn, yếu kém, bất lực biết bao! Còn Thiên Chúa, ngược lại, luôn nói: Ta hiện hữu, không chút giới hạn nào. Đó là mạc khải của Ngài. Hoàn toàn khác chúng ta.
Đồng thời thật gần gũi chúng ta vì, Ta Hiện Hữu, Ta ở đây, Ta có mặt, Ta ở bên ngươi, Ta ở với ngươi. Thật vậy trong đoạn văn này Ngài tự mạc khải mình như Thiên Chúa của các tổ phụ, Thiên Chúa của Abraham, của Isaác, của Giacób, như Đấng giải phóng khỏi ách nô lệ, Đấng muốn đưa dân của Ngài ra khỏi Aicập, đến miền đất chảy sữa và mật. Sự hiện diện của Thiên Chúa là một sự hiện diện thân tình và cứu giúp. Ta Hiện Hữu. Chúng ta có thể nương tựa nơi Ngài, Ta hiện hữu vô giới hạn đồng thời Ta hiện diện với ngươi.
Câu nói mầu nhiệm này được Đức Giêsu lập lại để mạc khải Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài nói với các đối thủ của Ngài: ‘Khi các ngươi giương cao Con Người, các ngươi sẽ biết rằng Ta Hiện Hữu (Ga 8,28 ) và còn nữa: ‘Nếu các ngươi không tin Ta Hiện Hữu, các ngươi sẽ chết trong tội các ngươi’. Gắn bó với lời mạc khải này chúng ta thoát khỏi tội lỗi của chúng ta, thoát khỏi những giới hạn nhân loại của chúng ta. Khi bị bắt Đức Giêsu cũng đã lập lại lời này. Trong tin mừng Gioan, người ta hiểu cách rõ ràng đấy là lời tuyên xưng thần tính của Ngài. ‘Đức Giêsu tiến ra và hỏi: Các anh tìm ai? Họ thưa: Tìm Giêsu Nagiarét. Ngài nói: Chính Ta đây! Như thường thấy trong tin mừng Gioan, những lời này có ý nghĩa thông thường: Giêsu Nagiarét chính là Ta và đồng thời mang một ý nghĩa sâu xa hơn: Ta Hiện Hữu, trong sự kết hiệp với Cha.
Đức Giêsu mạc khải chính mình cùng cách thức như Chúa Cha, và mạc khải cách nghịch lý, trong lúc mà Ngài cởi bỏ hết mọi thiên tính của mình để trở nên một con người chịu đau khổ. Nhưng như thế Ngài đã thực hiện một cách sâu thẳm sự hiện diện của Thiên Chúa ngay chính trong cuộc sống của nhân loại. Lời mời gọi của Ngài: ‘Hãy đến với Ta, hỡi những kẻ đang vất vả và mang gánh nặng nề, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng’.
Sao ách của Chúa Giêsu thì êm ái và gánh của Ngài lại nhẹ nhàng? Ta có thể trả lời: vì Ta Hiện Hữu, Đức Giêsu đã mang sự hiện diện của Thiên Chúa đến tận đáy vực thẳm khốn khổ của chúng ta, chết trên thập giá vì ta và với ta, nhận trên mình mọi đau khổ của chúng ta. Do đó ta có thể nghe lời Thiên Chúa: Ta Hiện Hữu, trong mọi hoàn cảnh sống. Dù bị đàn áp, ta có thể và phải cảm nhận Đức Giêsu nói với ta: Ta Hiện Hữu. Ta gần bên con, ở với con trong cơn túng ngặt này, trong cảnh cùng khốn này. Không có cùng khổ nhân loại làm ta xa lạ, vì Ngài hiện hữu luôn trong chính cảnh khốn cùng của nhân loại. Chính vì thế gánh của Chúa thì nhẹ nhàng: vì Ngài cùng vác với ta.
Ta Hiện Hữu. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa thật xa vời, Thiên Chúa thật khác biệt, đã trở nên thật gần, đã tự đồng hóa mình với chúng ta để có thể nói: Ta ở cùng con, Ta là Thiên Chúa, Đấng đã có, hiện có và sẽ đến.
+++
Đức Giêsu không ngỏ lời với những con người tự phụ, cho rằng mình biết Thiên Chúa và ý muốn của Người, và những người tưởng rằng mình được kêu gọi và có quyền đặt ra những luật lệ đời sống phù hợp với Thiên Chúa. Đức Giêsu kêu mời những con người bị trở thành nô lệ và đang rên siết dưới gánh nặng của lề luật của thế giới này. Đầu gục xuống và mắt cúi xuống, họ bước đi dưới cái ách mà các tiến sĩ luật áp đặt cho họ. Từng bước một, họ ý thức về sự giới hạn của mình, trong niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ xót thương họ.
Hình ảnh ‘ách êm ái’ không xua đuổi con người, tượng trưng những chỉ thỉ đời sống mà Đức Giêsu ban cho, ngược lại với những điều của các tiến sĩ luật ngày xưa. Đức Giêsu biết Chúa Cha hơn bất cứ ai khác. Ngài biết Chúa Cha muốn họ là những con người thực sự. Đời sống của người học nơi Ngài, -đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng- được biến đổi tự bên trong: người ấy gặp được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.
+++
Hãy học cùng Ta
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày cho ta niềm hy vọng và phó thác nơi Chúa. Lời cầu nguyện của Isaia thật tuyệt đẹp, diễn tả nổi nhớ nhung của ông đối với Chúa, đấng mà ông mong đợi ơn cứu độ cho dẫu trong đời sống sự đau khổ luôn là bạn đồng hành bất khả phân ly, tựa như thai phụ lúc sinh con. Sống xa cách Thiên Chúa, thay vì sinh ra điều gì mới mẽ, chỉ sinh ra gió vì thiếu dấu ấn của Chúa. Nhưng niềm hy vọng ngự trị trên tất cả và vị ngôn sứ quả quyết rằng Đấng Tối Cao sẽ cho các kẻ nằm trong bụi đất chỗi dậy. Thánh vịnh đáp ca tái khẳng định lời ngôn sứ loan báo: Thiên Chúa sẽ phục hồi dân Israel, ban vinh quang cho các vua và dân chúng trên mặt đất: lời loan báo này được kiểm chứng nơi Giáo hội của Chúa rộng mở cho mọi dân tộc.
Đức Giêsu mở rộng lòng Ngài cho những ai đang bị quằn quại dưới gánh nặng của cuộc sống. Hãy đến với Ta! Nhiều lần ta sợ đến với Chúa, sợ rằng Ngài đòi hỏi ta nhiều quá…trái lại Ngài quả quyết ách của Ngài êm ái và gánh của Ngài nhẹ nhàng. Ta có thể cảm nếm niềm vui này bằng cách đáp trả lời mời gọi đến với Ngài, trong những lúc lo âu, hoặc trong thánh lễ Tạ ơn, lắng nghe hoặc đọc Lời Chúa như sương chiếu sáng mang lại nghỉ ngơi và bồi dưỡng trong hành trình gian khổ mỗi ngày.
Thứ sáu Tuần XV Tn
Ngày Sabát vì con người
Người ta thấy có một sự tương phản giữa những chỉ thị Xuất hành đề cập đến con chiên vượt qua và những lời của Đức Giêsu trong tin mừng hôm nay: ‘Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần hy lễ’.
Nói thế, Đức Giêsu muốn nói lên tinh thần của Cựu Ước: tất cả đều là biểu tượng. Chẳng hạn, máu con chiên không có khả năng cứu thoát, nên các chỉ thị hy lễ không phải là những điều thiết yếu, nhưng nêu rõ ý nghĩa của biểu tượng. Chỉ thị cách ăn thịt chiên: ‘không được ăn sống, không đun sôi, nhưng phải được nướng trên lửa’. Ở đây ta có thể nhận thấy mối liên hệ giữa hy lễ và lòng nhân. Cái chết của Đức Giêsu là hoàn toàn tự hiến, hy lễ tuyệt đỉnh, hành vi của lòng nhân. Giờ đây, Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn của Ngài, được biến đổi do quyền năng của Thánh Thần, ngọn lửa đích thực, lửa của tình yêu và lòng nhân. Thịt ‘nướng lửa’ gợi lên hy lễ đích thực này.
Đời sống kitô hữu không được tạo nên bằng những hy lễ mang tính nghi thức, nhưng là nhờ sự kết hiệp với Đức Giêsu. Khi chúng ta tham dự thánh lễ, chúng ta không hiện diện vì nhiệm vụ, nhưng chúng ta muốn kết hiệp với Đức Giêsu, dâng hiến cuộc sống chúng ta hòa vào trong cuộc sống của Chúa, để được thiêu đốt trong ngọn lửa tình yêu.
Ta muốn lòng nhân chứ đâu phải hy lễ. Đức Giêsu trưng dẫn câu thánh kinh này ở cuối cuộc tranh luận với những người biệt phái, đang phản ứng chống các môn đệ vì bứt vò gié lúa trong ngày Sabát cho đỡ đói. Các biệt phái chắc chắn rằng họ làm đúng và làm theo ý Chúa khi tuân thủ tỉ mỉ vô số những chỉ thị, những tiểu tiết chi li. Không phải đó là khôn ngoan của tin mừng. Thiên Chúa tỏ mình như đấng giải thoát và muốn chúng ta hăm hở đến với ngài trong tinh thần tuân phục của những người con tự do, vâng phục vì tự do, có khả năng xem xét các tình huống, xét đoán và quyết định đi theo sự lành. Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong tình bác ái và các chỉ thị phải lệ thuộc vào nguyên lý này: ‘Ngày Sabát làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát’. Như vậy cuộc sống chúng ta minh chứng về Ngài, Thiên Chúa dựng nên con người tự do.
+++
Ta thường hiểu xấu về luật ngày sabát thời Đức Giêsu. Cần phải tìm hiểu bối cảnh của nó. Nhưng điều Đức Giêsu đặt ra cho ta, đó là tính ưu tiên của lòng thương xót, được xem như là tiêu chuẩn cho mọi điều luật. Thật vô lý khi ngăn cấm một người đang đói ăn, cho dù với bất cứ lý do nào đi chăng nữa. Cũng vô lý khi phải hy sinh bản thân mình vì tình yêu dành cho hy lễ. Kết án những người vi phạm lề luật mà không tìm biết nguyên nhân của họ, thật vô nghĩa. Cuộc sống có quá nhiều mặt nên không thể đóng kín nó vào những khuôn khổ quy định sẵn được.
Phải chăng chúng ta là người phóng khoáng? Không, bởi vì bản năng đói không biến thành lòng vị kỷ quá quắt. Nếu lòng ta thân thương với những người sống bên mình, Thiên Chúa sẽ không khước từ chúng ta con tim yêu thương của Ngài: Ngài chỉ yêu chúng ta khi ta sống dưới bóng cánh của Ngài. Và khi con cái đói, lẽ nào cha mẹ lại tranh luận trước tiên đến điều này điều nọ?
Thứ Bảy Tuần XV Tn
Ơn cứu độ cho muôn dân
Thánh Luca trong ‘tin mừng thời thơ ấu’ cho ta biết Đức Giêsu vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria. Là con người, ngài đã học cho biết khiêm tốn, không bao giờ lớn tiếng, cất lên lời chỉ để ca tụng Thiên Chúa.
Hôm nay tin mừng trình bày Đức Giêsu như người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Con Thiên Chúa hiền lành, đứng trước những người biệt phái đang bàn bạc để giết Ngài, không đối đầu, nhưng lánh xa đi nơi khác. Con Thiên Chúa hiền lành chữa lành hết tất cả. Ngài hoàn tất hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa không kháng cự lại bằng bạo lực nhưng bằng sự hiền lành, mà Isaia đã nói: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi; sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm và cho người mù được thấy; trả lại tự do cho người bị áp bức’.
Nhưng cũng có một bộ mặt khác. Trong đoạn mà tin mừng hôm nay trích dẫn, hai lần Isaia nói đến ‘muôn dân’, nghĩa là dân ngoại, muôn dân nước: ‘loan báo công lý trước muôn dân’, ‘muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người’. Rõ ràng là ý định của Thiên Chúa muốn thông ban đến cho mọi người tình thương của Ngài, tình thương mãnh liệt và khiêm tốn. Như thế giải thích bài đọc 1. Thiên Chúa đã tuyển chọn và huấn luyện một dân tộc, sau khi đã giải phóng họ khỏi tay những người dân ngoại. Nhưng tất cả ân huệ Ngài ban phát cho dân này: ‘chọn làm con, vinh quang, giao ước, lề luật, phụng tự, lời hứa, các tổ phụ, như thư Roma nhắc đến (9,4), đã được ban cho họ là nhằm để cứu thoát muôn dân. Chính Phaolô, gốc do thái, đã được mời gọi để nên tông đồ cho muôn dân. Và thánh Phêrô cũng viết trong thư thứ nhất của Ngài, khi nói về các tiên tri: ‘Họ được mặc khải cho biết là các điều ấy, họ có sứ vụ dọn, không phải cho chính họ, mà là cho anh em, những điều mà nay đã được loan báo cho anh em’ (1 Pr 1, 12).
Tất cả mọi ân huệ Chúa ban cho chúng ta là nhằm ích lợi cho mọi người, như thánh Phêrô viết: ‘Mỗi người sống theo ân sủng lãnh nhận nhằm phục vụ mọi người’. Xin Chúa Giêsu mở tâm hồn chúng ta cho tình yêu phổ quát đang tràn đầy quả tim ngài, lò lửa bừng cháy tình yêu.
+++
Tin mừng hôm nay nói với ta rằng Thiên Chúa muốn ta hạnh phúc. Tôi có thật hiểu điều đó nghĩa là gì không? Thiên Chúa muốn hạnh phúc của tất cả chúng ta, cho dù những giới hạn của ta. Điều lạ là tất cả những gì làm nên nỗi khổ hoặc hạnh phúc của ta điều thấy đề cập đến trong Kinh Thánh. Ta tìm thấy chúng trong nội tâm: ta và những trải nghiệm của ta. Chính nơi Đức Giêsu mà lời của Thiên Chúa tỏ bày cho ta, và chính nơi Ngài mạc khải ‘sự thật’ về Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể nói cho ta điều gì hơn nữa, nơi Đức Giêsu, Con của Người, Đấng cứu độ chúng ta. Đức Giêsu nói với ta trước tiên điều này: chúng ta đã được đón nhận trong cuộc đời mình. Đây chính là điều mà Lời Thiên Chúa nói. Ta có hiểu không? Đức Giêsu nói: ‘Tôi muốn bạn hạnh phúc vô cùng. Trong đời bạn đau khổ không phải là tiếng nói sau cùng khi mà đời bạn nát tan, khi tia hy vọng tắt ngúm, và bạn nói: ‘tôi thật xấu xa’. Kẻ đón nhận lời Thiên Chúa sẽ học biết rằng, vượt trên tất cả, sự sống tái sinh. Hội Thánh không sống được nếu Kinh Thánh không chạm đến đời sống trong lòng cộng đoàn. Và đời sống ta thường bị đóng băng! Những thứ lấy ra từ máy làm đông băng thường nhạt nhẻo, chẳng có mùi vị gì, chỉ nhận biết được chúng nhờ nhãn hiệu. Chỉ cần làm nóng chúng để tìm lại hương vị. Cũng thế cuộc đời ta cũng thường bị đóng băng, ngay cả những mối tương giao của ta cũng thế.
Nhưng Lời Chúa hâm nóng lại. Kinh Thánh: cho dẫu hoàn cảnh tuyệt vọng đến cỡ nào đi chăng nữa, mỗi người chúng ta cũng có thể bắt đầu lại từ số ‘không’ (zero). Vì ta được kêu gọi và có thể bắt đầu hiểu thế nào là sự sống, là sự khôn ngoan, là khả năng yêu thương. Ta sẽ tìm gặp được một ý nghĩa trong cuộc sống của mình, nếu cuộc đời ta thấm đượm tình yêu dành cho Lời, đã chạm đến cuộc sống và làm cho nó có khả năng luôn mở ra nhiều hơn. Không còn gì tốt hơn để nói về cuộc đời.
Hãy đặt đời mình dưới Lời, và bạn sẽ thấy hiệu quả.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Thánh Bênêdictô
Chúng ta sẽ dễ dàng cho rằng tin mừng thật xa xôi, khi nghĩ rằng: Chỉ các môn đệ mới phải dấn thân, hoặc các vị như thánh Bênêdictô, Thiên Chúa mới kêu gọi để thực hiện những việc trọng đại. Tin mừng không phải là một quyển sách lịch sử. Không chỉ thuật lại những sự kiện. Các Tông đồ, các thánh và các vị thừa sai trao lại cho tôi tin mừng. Hãy nhìn Phêrô theo Đức Giêsu và các môn đệ khác đã từ bỏ tất cả; hãy nhìn thánh Benêdictô, khi còn là sinh viên trẻ tuổi, đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa của Roma để lui vào trong cô tịch! Mọi người đều ở trong lịch sử. Chúng ta đâu phải chỉ là những khách bàng quang? Tin mừng không liên quan gì đến chúng ta sao?
Tin Mừng nói đến Triều đại mới, thời tái sinh. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa có dự tính cho chúng ta. Chính đó là bi kịch của tình yêu. Là lịch sử đời tôi với Thiên Chúa. Lịch sử thiên triều đã bắt đầu. Cần phải tiếp tục thuật lại lịch sử như là lịch sử của Thiên Chúa với từng người. Trong bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu thuật lại lịch sử của chính mình khi Ngài nói: ‘Đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển…’ (Mt 19,28). Đối với Đức Giêsu điều đó nghĩa là tình yêu cao độ cho đến độ chết trên thập giá. Ngài biết: Chúa Cha đã sai Ngài đến thế gian vì tình yêu và muốn Ngài làm phát sinh một dân tộc mới. Sứ vụ của Ngài là loan truyền tình yêu cho toàn thế giới. Thiên Chúa muốn tuôn đổ tình yêu Ngài vào trong thế gian. Đó chính là bi kịch của tình yêu. Chúng ta có thể dự phần vào bằng cách để cho Thiên Chúa chỉ cho ta việc phải làm. Bởi vì Ngài sẽ tỏ mình cho chúng ta, từng người một. Biết bao lần chúng ta đã chối từ lời mời gọi: ơn cứu độ xảy ra lúc này và ở đây, ngay hôm nay. Không phải trên lý thuyết, nhưng trong chính giây phút Đức Giêsu yêu, nói và làm. Điều quan trọng là tôi biết ngước mắt nhìn sự việc xảy ra. Ích gì cho tôi, nếu ai đó tha thứ cho tôi trên lý thuyết chứ không phải trong lòng, hoặc lúc khác chứ không phải lúc này? Việc thực hành của Đức Giêsu cho ta thấy điều này: Ngài đến gặp tất cả mọi người. Ngài mời gọi mọi người. Nên tôi không phải sợ gì. Tôi chẳng cần phải là người có địa vị; dù tôi thế nào đi chăng nữa, cứ việc đến. Đối với cộng đoàn, điều đó có nghĩa: tôi vẫn là một thành viên ngay cả với những yếu đuối của mình.
Lễ kính thánh Maria Mađalêna
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta việc Đức Giêsu hiện ra cho Maria Mađalêna, mà hôm nay chúng ta mừng lễ. Cái chết của Đức Giêsu, người bạn thân nhất của bà, đã làm bà mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Thế nhưng bà không ngừng tìm kiếm Ngài. Bà đến mộ tìm gặp người mà cái chết đã cướp đi mất. Có những phút giây trong cuộc sống mà tất cả hình như đều sụp đổ. Hình như là tận cùng. Chết chóc, tai ương, đau khổ, thất vọng, bội phản! Biết bao điều có thể làm cho đất sụp dưới chân ta và gây khủng hoảng nặng nề nơi lòng ta. Nhưng có điều này cũng có thể xảy ra: Một cách bất ngờ, gặp gỡ một người bạn mang lại cho ta ý nghĩa của cuộc đời và giúp ta tái khám phá ra tình yêu mãnh liệt hơn sự chết. Qua cách miêu tả cuộc Đức Giêsu hiện ra cho bà Maria, chúng ta nhận ra những giai đoạn, từ việc tìm kiếm trong đau khổ người bạn quá cố cho đến cuộc gặp gỡ Đấng phục sinh. Cũng chính là những chặng đường tất cả chúng ta phải trải qua, suốt cuộc đời đi tìm Thiên Chúa và sống tin mừng. Là tiến trình chết-sống lại được lập đi lập lại mỗi ngày.
Ga 20,1: Maria Mađalêna đi thăm mộ. Một tình yêu sâu đậm gắn bó Maria với Đức Giêsu. Bà là một trong những người có can đảm ở lại với Đức Giêsu cho đến giây phút Ngài trút hơi thở trên thập giá. Sau ngày nghỉ lễ buộc, bà trở lại mộ, để hiện diện tại nơi mà bà đã gặp lần sau hết Người mình quý mến. Nhưng thật bất ngờ, ngôi mộ trống!
Ga 20,11-13: Maria Mađalêna vừa tìm, vừa khóc. Vừa khóc, bà cúi mình nhìn vào trong mộ và thấy hai vị thiên sứ mặc đồ trắng, ngồi nơi đặt xác Chúa, một vị ngồi đàng đầu, một vị ngồi ở đàng chân. Các vị ấy hỏi: ‘Này Bà, sao bà khóc? Bà trả lời: Người ta lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu’! Maria tìm Đức Giêsu mà bà biết, là Đấng mà bà đã cùng kề cận ba năm qua.
Ga 20,14-15: Maria thưa với Đức Giêsu mà không hề nhận ra Ngài. Các môn đệ trên đường Emmaus thấy Đức Giêsu mà cũng không nhận ra Ngài (Lc 24,15-16). Maria Mađalêna cứ tưởng là người làm vườn. ‘Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?... Bà vẫn đi tìm Đức Giêsu của quá khứ, của ba ngày trước đây. Hình ảnh đó ngăn không cho bà nhận ra Đức Giêsu đang sống, hiện diện trước mặt bà.
Ga 20,16: Maria nhận ra Đức Giêsu. Đức Giêsu gọi: Maria! Đây là dấu chỉ nhận biết: cùng một cung giọng, cùng một cách gọi tên. Bà đáp: Lạy Thầy! Cảm tưởng đầu tiên là cái chết chỉ là một biến cố đau khổ, đã qua rồi, bây giờ mọi sự trở về như trước kia. Maria ôm chầm lấy Đức Giêsu. Chính là Đức Giêsu đã chết trên thập giá, mà bà đã biết và yêu mến. Trong dụ ngôn về người Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu nói: Người ấy gọi tên từng con và dẫn chúng đi và các chiên nhận biết tiếng kẻ ấy. Ta biết chiên của Ta và chiên của Ta biết Ta (Ga 10,3.4.14).
Ga 20,17: Maria nhận sứ vụ loan báo sự sống lại cho các tông đồ. Thực vậy, chính là Đức Giêsu, nhưng cách thế Ngài ở với bà thì khác hẳn. Đức Giêsu nói với bà: ‘Đừng giữ Thầy lại! Vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha’. Đức Giêsu cùng hiển trị với Cha. Maria không được giữ Ngài nhưng phải hoàn thành sứ vụ được giao. ‘Đi nói anh em Thầy rằng: Thầy về cùng Cha Thầy cũng là Cha của anh em’. Ngài gọi các môn đệ là anh em. Lên cùng Cha, Đức Giêsu mở cho chúng ta con đường để được ở bên cạnh Chúa Cha. ‘ Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con’ (Ga 17,24; 14,3).
Ga 20,18: Phẩm giá và sứ vụ của Maria và các phụ nữ. Maria được gọi là người nữ môn đệ của Đức Giêsu (Lc 8,1-2); bà chứng kiến Chúa bị đóng đinh (Mc 15, 40-41; Mt 27, 55-56; Ga 19,25), việc chôn xác Ngài (Mc 15,47; Lc 23,55; Mt 27,61) và việc Ngài sống lại (Mc 16,1-8; Lc 24,1-10; Ga 20,1.11-18 ). Và giờ đây bà nhận mệnh lệnh đi gặp các Tông Đồ để báo tin Đức Giêsu đã sống lại. Không có tin vui sống lại này, bảy ngọn đèn của các bí tích sẽ tắt ngúm (Mt 28,10; Ga 20, 17-18 ).