CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm A nêu rõ: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo sự giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày tại Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngõ hầu được Thiên Chúa thứ tha, bởi vì đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân bị giằng co thế đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Mt 20: 1-16
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn thợ làm vườn nho, trong đó Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng xót thương của Thiên Chúa vượt lên trên sự công bằng giao hoán.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích nầy là một trong những sứ điệp sau cùng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đày tại Ba-by-lon vào khoảng những năm 545-540 tCn, để báo tin cuộc giải phóng sắp gần kề, nhưng vài người trong họ nghi ngờ và nhụt chí. Trong sứ điệp sau cùng này, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị nhấn mạnh Đức Chúa là Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ và là Đấng toàn năng.
1.Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ (55: 7-9)
Theo ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, thời gian cứu độ sắp tới gần phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải, vì vào lúc này Thiên Chúa ở bên dân Ngài gần gũi hơn bao giờ hết để giải thoái và cứu độ họ.
“Hãy tìm Đức Chúa, khi Người còn cho gặp,
kêu cầu đi, lúc Người ở gần bên” (55: 6).
Đã gần năm mươi năm trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên lúc mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Lòng hoán cải mà Thiên Chúa trông đợi là “trở về với Ngài”, Ngài là một vị Thiên Chúa luôn sẵn lòng tha thứ. Chân thành trở về với Thiên Chúa không gì khác hơn là tránh xa những tư tưởng gian tà, chấm dứt những việc làm gian ác:
“Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có” (55: 7).
Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải đồng nhất với cuộc trở về với Đức Chúa. Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là: Thiên Chúa là Đấng vô cùng độ lượng. Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở tận chốn đất thấp. Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào được tha thứ, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết Ngài rộng lượng từ bi đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ quay về với Ngài, cũng như sẵn sàng trả công bội hậu cho con người vượt quá công sức của họ gấp trăm ngàn lần.
2.Thiên Chúa là Đấng toàn năng (55: 9):
Ngôn sứ hoàn tất sứ điệp của mình bằng cách nhắc lại hình ảnh “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách phân chia vô tận giữa con người và Thiên Chúa:
“Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (55: 9).
Đây là ý niệm truyền thống mà Đức Giê-su sẽ dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9).
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã kết nối quyền năng cao vời khôn ví của Thiên Chúa với tấm lòng sẵn sàng tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mõng dòn, bởi vì chúng là kẻ tội lỗi trong khi Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài cưu mang những tư tưởng cứu độ.
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê miền Ma-xê-đoan là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô thử mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Vào lúc đó, cộng đoàn Phi-líp-phê gồm một số ít là người Do thái và đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, thánh nhân đến Phi-líp-phê, ngài luôn dành cho các tín hữu Phi-líp-phê một ân tình sâu sắc. Các tín hữu Phi-líp-phê giúp đỡ thánh nhân trong khi thánh nhân đang lâm cảnh túng thiếu. Chỉ duy từ họ mà thánh nhân chấp nhận giúp đỡ.
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê (chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp) hình thành nên một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và một tấm lòng gắn bó của thánh nhân vào Đức Ki-tô. Từ tính khí bộc trực, những lời khuyên bảo của thánh nhân lại chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết thư nầy, ngài đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Ki-tô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ của ngài. Sự giằng co đôi ngã, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã của sự chọn lựa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu: “Đức Giê-su sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết” (1: 20).
1.Chết là một mối lợi.
Bị giằng co giữa hai đàng, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều nầy tốt hơn bội phần” (1: 23). Thánh nhân đã xác định mục đích của cuộc đời mình rồi: “sống là Đức Ki-tô”. Bên kia cái chết, hiệp nhất với Đức Ki-tô lại còn trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thánh Phao-lô hoàn tất tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa…Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc tư tưởng Hy lạp, tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của nhị nguyên thuyết Hy lạp, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, thánh nhân ca ngợi thân xác nầy là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn nhắm đến sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô sau khi chết, tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã bắt đầu ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Ki-tô hữu vốn là đã được Đức Ki-tô chiếm đoạt rồi, là nơi Chúa Thánh cư ngụ cùng với chúng ta. Thần Học của Giáo Hội tiếp nối thánh nhân trên con đường nầy. Cái chết không gây nên một sự đứt đoạn cuộc sống chúng ta trong Đức Kitô.
2.Nhu cầu loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dù thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Ki-tô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn say mê theo đuổi sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài. Cuối cùng thánh nhân khuyên bảo họ: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1: 27).
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy đóng lại một loạt dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố gắng làm cho hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp làm thế nào hướng đến chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó bài học được rút ra.
Ở đây, sự thú vị của câu chuyện nằm ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm. Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo lời Đức Chúa phán qua vị ngôn sứ của Ngài trong Bài Đọc I:
“Trời cao hơn đất bao nhiêu,
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” (Is 55: 9).
1.Thiên Chúa hoàn toàn tự do.
Thật vô lý nếu người ta tiếp cận dụ ngôn nầy theo khía cạnh trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, theo đó Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, chúng ta hãy khảo sát cách hành xử của con người với con người. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra gần gũi hơn với thế giới của chúng ta đang khủng hoảng, một thế giới đang quần quại sống trong nỗi đau của đa số người cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Họ chờ đợi suốt ngày bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm. Ông chủ năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy, chúng ta cảm thấy một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được đầy đủ tiền công nhật để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một đồng, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
2.Sống trong tư thế sẵn sàng:
“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong sự nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ đã làm việc cho ông suốt ngày như bao nhiêu người khác.
Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ Sa-ma-ri, không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận mặc khải của Ngài.
3.Nổi bất bình của những thợ đầu tiên.
Những người thợ làm việc ngay từ sáng sớm ngạc nhiên trước tiền công mà ông chủ trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng chói chang! Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng. Người con cả công phẩn trước cách cư xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu nỗi tấm lòng của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng.
“Nầy bạn” ông chủ trả lời với một trong những người bất bình. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nhẹ nhàng quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy cũng một cách như thế: “Nầy bạn” (Mt 26: 50). Vị vua cũng quở trách người khách vào dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới cũng một cách thế như vậy (Mt 22: 12).
4.Công bình và lòng nhân ái:
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ vì mình được mời gọi làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã vất vã nhiều trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt đến từng chấm từng câu nên khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về sự công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái.”
Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Ki-tô hữu là những người đến sau được gọi gia nhập Nước Trời. Dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ vào những giờ phút cuối đời mình. Ví dụ cảm động nhất chắc hẳn là câu chuyện của tên gian phi sám hối. Cả một đời gian phi nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).