Chúa Nhật IV MC B
Toàn bộ Tân Ước chú tâm về giáo lý của việc cứu độ. Việc mỗi con người và mọi việc trở về để đạt đến sự thánh thiện, nơi Chúa Cha, đều được thực hiện nhờ qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô.
Tin mừng Thánh Gioan lại nhấn mạnh cách riêng đến việc nhập thể. Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến thế gian. Đến một thế giới sa đọa và Ngài đã mang đến ánh sáng và sự sống mới. Qua cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã phục hồi tất cả mọi sự cho Chúa Cha và mạc khải thực thể toàn vẹn căn tính của Ngôi Lời làm người. Nhờ Ngài mà tất cả được ánh sáng soi chiếu.
Đời sống của chúng ta trong Giáo Hội là thực hiện lời đáp trả cho Đức Kitô. Giáo huấn của Tân Ước – mà ta thấy một ví dụ trong trích đoạn hôm nay – rất rõ ràng. Sự cứu độ đã được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, nhưng đối với ta việc cứu độ ấy còn cần phải được thực hiện. Vì ta có thể khước từ ánh sáng và chọn bóng tối.
Trong phép rửa, Đức Kitô ngỏ lời với ta: ta được tháp nhập vào Ngài và như thế ta liên kết với mọi người đã được rửa tội trong Thân Thể Đức Kitô. Lời đáp trả của ta có thể thực hiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhưng cũng cần sự chấp thuận của chính chúng ta. Khi vẫn còn sự đồng thuận như thế, những gì ta làm đều được làm trong Đức Kitô và trở nên dấu chỉ. Ta trở nên chứng nhân của Ngài trong thế giới.
2Cr 36,14-16.19-23; Tv 136; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay được đưa vào khung cảnh của năm phụng vụ B, nhấn mạnh rằng Thiên Chúa yêu ta và giúp ta hiểu ý nghĩa của những đối nghịch do tội gây ra.
Thiên Chúa yêu ta, nhưng Ngài yêu ta theo cách của Ngài: Ngài để cho dân phải lưu đày để giáo huấn họ. Đọc lại lịch sử, dân Israel bị đồng hóa với não trạng dân ngoại, thờ ngẫu tượng. Thiên Chúa, Đấng hướng dẫn lịch sử, để cho họ xa cách Ngài [lưu đày], nhưng rồi lại can thiệp để uốn nắn lại mọi sự. Thái độ này đặt ra những thắc mắc: các kitô hữu có cần phải bảo vệ căn tính của mình không hay là…? Các kitô hữu có ý thức rằng mình là một dân tộc mang tính ngôn sứ không? Ai sẽ thắng thế gian? Thiên Chúa thấy và tiên liệu như thế nào? Đức tin của ta có thắng thế gian không? Nếu có thì đó là đức tin nào?
Hôm nay chúng ta mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay, Chúa nhật của niềm vui. Quả vậy trong lời ca nhập lễ ta đọc thấy lời: “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ (Is 66,10-11). Phụng vụ Chúa nhật hôm nay cũng cho phép mặc phẩm phục màu hồng, để nhấn mạnh đến niềm vui này: tình yêu của Thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui, sự an ủi của ta.
Bài đọc 1 trích từ sách Sử Biên Niên thuật lại thảm cảnh của Israel, việc phá hủy đền thờ Giêrusalem và dân bị lưu đày sang Babylon, do sự bất trung, khước từ căn tính của họ và không chịu lắng nghe tiếng của các ngôn sứ mà Thiên Chúa không ngừng gửi đến cho họ để họ quay trở về và hoán cải. Tuy nhiên Thiên Chúa không dừng chương trình của Ngài nên đã khơi lên tinh thần của Ngài trong hồn Vua Kyrô, vua Ba Tư, là người mang lại niềm hy vọng hồi hương cho dân: tiếng nói sau cùng là sự tha thứ, do đó chính là tin vui.
Dựa trên những điều trên thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Ẽphêsô, lập lại chủ đề này và nhắc nhớ rằng “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu” và làm cho ta được cùng sống lại với Đức Kitô, dẫu là những kẻ chết do tội của mình. Thánh Phaolô nhắc rằng nguồn gốc của toàn bộ vẻ đẹp này là lòng tốt nhưng không của Thiên Chúa, nhờ đó ta có thể hưởng nhờ ân huệ của lòng tin. Do đó ta có thể thực hiện được những điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã dự định để ta thi hành.
Trong tin mừng hôm nay ta nghe lại tường thuật cuộc gặp mặt giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, là hình ảnh của mỗi người chúng ta: một người có đức tin, biết Lời Thiên Chúa, nhưng cũng đầy những hoài nghi. Một cuộc đối thoại giữa hai cách thức nhìn cuộc sống khác biệt nhau, và lý giải cách cũng khác nhau.
Đức Giêsu nói “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để cứu độ thế gian”. Câu này là chìa khóa để đọc ra dự định của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa chúng ta, Ngài đã yêu thương và muốn chúng ta được hạnh phúc hơn là chính chúng ta ước muốn. Cuộc sống là điều nghiêm túc và hạnh phúc là một cuộc trải nghiệm đòi hỏi nhiều nỗ lực và kiên trì: thập giá Đức Giêsu chứng tỏ đến mức độ nào Thiên Chúa sẵn sàng yêu chúng ta và mang lại niềm vui cho ta. Trong viễn ảnh đó không phải chính Thiên Chúa xét xử chúng ta, nhưng đúng hơn là chính con người chúng ta, bằng chính cuộc sống của mình, khước từ hoặc đón nhận tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Con người tự xây dựng cho chính mình hoặc ơn cứu độ hoặc sự kết án, ánh sáng hoặc bóng tối. Đức tin thực hiện việc xét đoán, và con người bằng chính thái độ sống của mình tự xét xử mình. Trong câu cuối đoạn tin mừng thánh Gioan (21) dùng một thuật ngữ đặc biệt “hành động trong sự thật”. Đối với ta, sự thật là một ý niệm cần phải học, nhưng đối với thế giới thánh kinh thì ngược lại, và nhất là cách riêng đối với Gioan và Phaolô, sự thật của Thiên Chúa không phải chỉ để hiểu biết nhưng còn để thực hiện, nghĩa là đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa vào trong cuộc đời mình và cùng xây dựng đời sống với Ngài.
Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá, là Người Con bị giương lên cao như con rắn trong hoang địa thời Xuất Hành, là điểm quy chiếu cho toàn thể nhân loại: chúng ta không phải là kitô hữu vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa yêu chúng ta. Tái sinh nghĩa là nói vâng với chương trình mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống, nghĩa là chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đến với ta qua những gian khó, qua những lúc không luôn dễ dàng, và biết luôn nhìn vào Ngài Đấng bị giương cao trên thập giá, đang kéo ta về với Ngài và dạy ta con đường của Tình Yêu toàn hiến. Đức Giêsu mời gọi ta nên ánh sáng nghĩa là ta hãy đặt những sợ hãi, những mong ước, những đòi hỏi của ta ở hàng thứ cấp và tự nguyện đến với những nguòi bên cạnh gia đình ta, với đồng nghiệp, với con cái mình và tất cả những ai mà chúng ta quyết định đón nhận trong cuộc đời mình cùng với tiếng xin vâng.
Thứ hai Tuần IV MC
Nhờ lòng tin
Trang tin mừng hôm nay cho ta thấy không có tiên tri nào được trọng vọng nơi quê hương mình. Theo nghĩa đen, quê hương của Đức Giêsu là Nagiarét, một làng quê của Galilêa ít được biết đến. Thánh Gioan nhấn mạnh đến điểm này để nêu lên chứng cứ truyền giáo của Đức Giêsu. Ngài được sai đến với dân Giuđêa, trung tâm chính là đền thờ Giêrusalem, thế nhưng không được đón nhận (Ga 1,11).
Ơn cứu rỗi nhờ vào lòng tin vượt lên trên những đặc quyền liên hệ đến sắc tộc cũng như bất cứ một chủ nghĩa địa phương nào. Đức Giêsu đã chuyển hướng hoạt động của Ngài không chỉ về miền Galilêa nhưng còn về các miền dân ngoại. Và trong đoạn tin mừng này, cái thế giới dân ngoại ấy được viên quan chức nhà vua ở Caphanaum đại diện, ông không phải là người do thái. Ông là dân ngoại, nhưng đã tin vào lời của Đức Giêsu, trở thành mẫu gương của một đức tin trong sáng và chân thực.
Đoạn tin mừng của thánh Gioan nhấn mạnh đến cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và viên quan chức, đồng thời đề cập đến đối tượng của cuộc đối thoại: niềm tin. Niềm tin đích thực là niềm tin chấp nhận Đức Giêsu, dẫn con người đến Đấng Cứu Độ. Nhờ đức tin, chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra Chúa Cha và tình yêu của Ngài trong cuộc sống chúng ta.
Khi xét đến niềm tin của chúng ta, niềm tín thác vào Đức Giêsu, qua quyền năng của lời Ngài, sẽ thực hiện những phép lạ trong cuộc đời chúng ta. Trong đoạn tin mừng này, chúng ta nhận ra hiệu quả của lời Thiên Chúa và niềm tin tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu. Như thế, cũng như Đức Giêsu đã ban thưởng niềm tin của viên quan chức nhà vua, Ngài cũng ban thưởng cho lòng tin của mỗi người chúng ta.
Thứ ba Tuần IV MC
Đừng phạm tội nữa
Trong thị kiến của Êgiêkien, nước chữa lành và ban sự sống, tượng trưng cho ân sủng của Thiên Chúa ban tặng dồi dào trong thời cứu độ, gắn liền với việc Đức Giêsu đến trong thế gian. Đó là lý do Đức Giêsu không dẫn bệnh nhân đến hồ Siloe, nguồn suối ơn thiêng của thời Cựu Ước, mà lại chữa lành anh ta bằng chính quyền năng riêng của Ngài.
Việc chữa lành nhằm ngày Sabát, và Ngài đã truyền lệnh cho người được chữa lành vác chõng trong ngày Sabát, bởi vì đã đến thời của một ân ban cao cả hơn lề luật, Đức Giêsu, chủ của ngày Sabát. Trong bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào thời cứu độ và, được chữa lành khỏi mọi hình thức bất toại, chúng ta nhận được lệnh truyền ra đi mang theo hoa trái của đời sống trong Thánh Thần. Hôm nay Đức Giêsu ban cho chúng ta lời khuyến cáo như đã ban cho người bất toại: đừng rơi vào nô lệ tội lỗi nữa, vì sự bất toại tinh thần của các kitô hữu trầm kha hơn sự bất toại của người dân ngoại.
Mùa Chay là thời gian hồi tâm. Thế giới kitô và hậu kitô có lẽ nào lại không rơi vào tình trạng ngoại giáo, khi thờ các ngẫu tượng tiền bạc, danh vọng, quyền lực. Có lẽ chúng ta lại bị bất toại do không biết chiến thắng sự dữ trong xã hội, chính trị, gia đình và cá nhân sao. Những cơ cấu sự dữ trong xã hội không phải là cái ‘chõng bệnh’ của chúng ta đó sao? Các dư luận và các phong hóa trong môi trường chúng ta sống không cấu thành nên nó đó sao? Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta hãy quay về. Ngài giao hòa ta với Chúa Cha và chữa lành ta. Ngài nói với ta hôm nay: Hãy đứng dậy vác chõng mà đi, hãy sống và làm việc lành. Khi nghe tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhận ra việc mình cần phải làm trong lệnh truyền của Đức Giêsu: ‘Hãy đứng dậy mà đi và đừng phạm tội nữa’.
Thứ Tư Tuần IV MC
Đức Giêsu Kitô xét xử
Các bài đọc hôm nay cho ta biết Đức Giêsu Nagiarét là ai. Đức Giêsu biết và thấy Thiên Chúa hành động như thế nào, và nhờ đó mà Ngài hành động như Thiên Chúa, và do đó Ngài luôn hành động tốt đẹp, ngay cả trong ngày Sabát. Đức Giêsu có trong mình sức mạnh của sự sống và sự sống lại. Ngài là người con yêu dấu của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đòi hỏi Ngài phải hoàn thành những nhiệm vụ của Ngài. Đồng thời Ngài cũng là một con người hoàn hảo, và chính vì là con người nên Thiên Chúa đã đặt Ngài làm thẩm phán xét xử mọi người. Thời giờ Thiên Chúa xét xử chúng ta, xét xử qua Đức Giêsu Kitô, không chỉ là lúc kết thúc thế gian. Là lúc này đây, hôm nay, chúng ta đều bị xét xử bởi tòa án của Đức Giêsu Kitô, bởi lẽ thời thiên sai đã khởi đầu ngay lúc Ngài chết và sống lại. Hôm nay chúng ta đứng trước sự phán xét và lòng thương xót của Thiên Chúa, được trao ban cho Đức Giêsu Kitô. Phán xét điều dữ mà chúng ta đã phạm và vạch trần cho ta thấy. Nhưng Đức Giêsu Kitô mang lại cho ta sự tha thứ tội lỗi, chữa lành điều ác và phục hồi sự sống, sự sống mà chính ta đã cắt đứt hoặc làm suy yếu đi nơi chúng ta.
Do đó, cần đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu ta tin rằng Đức Giêsu Kitô đã thực sự đi vào trong lịch sử của nhân loại khi Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và Chúa Cha đã tỏ cho ta tình yêu của Người bằng cách trao ban cho ta Con của Người, nếu ta phó thác trong tay của Đức Giêsu Kitô, ta sẽ được thoát khỏi sự chết và bước vào sự sống, và thay vì bị xét xử, chúng ta nhận được lòng thương xót và trở thành con cái Thiên Chúa. Đàng khác, ta có thể từ khước ân ban này, ta có thể ưa chuộng sự dữ trong ta và không muốn được chữa lành. Trong trường hợp này, chúng ta tự đặt mình cho sự xét xử của Đức Giêsu Kitô. Cần phải cầu nguyện để không một ai làm sự lựa chọn này. Chúng ta thuộc về Đức Giêsu để cùng với Ngài cứu chuộc cả thế giới.
Thứ Năm Tuần IV MC
Bò vàng hay Thiên Chúa
Bài đọc Cựu Ước gìn giữ ta khỏi cám dỗ đi tìm con bò vàng, vị thần linh thấy được và chạm đến được do tay con người làm ra. Bài Tin mừng theo thánh Gioan đòi hỏi chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô. Nền tảng niềm tin của chúng ta là chứng từ của Cựu và Tân Ước. Chứng từ của sự thật mà con người không thể chứng minh bằng khoa học, cũng không thể kết đọng lại trong một luật lệ. Người Do thái thời Đức Giêsu có Cựu Ước, nhưng họ không hiểu những lời của Môsê nói về Đức Giêsu. Trước mắt họ, vị tiên tri thành Nagiarét đã làm bao nhiêu dấu lạ, nhưng họ đã giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Cần phải tin để hiểu được nội dung. Đức Giêsu đã muốn thuyết phục họ bằng cách hiến trao mạng sống mình vì họ.
Nhiều người tin vào Ngài, nhưng những kẻ thông thái và các kỳ lão chối từ. Còn chúng ta, chúng ta hiểu tin mừng như thế nào? Chúng ta có tin vào chứng từ của Chúa Cha nơi Đức Giêsu Nagiarét không? Có tin rằng Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Đấng Messia mọi người mong đợi không? Thiên Chúa, chẳng ai thấy bao giờ, nhưng chúng ta có lời của Đức Giêsu Kitô. Lời của Thiên Chúa có nơi chúng ta không? Và chúng ta có ở trong Đức Giêsu Kitô không? Có lẽ người ta sẽ trách cứ chúng ta vì đã không tin vào Đức Giêsu và các sứ giả của Ngài, trong khi lại tiếp nhận bất cứ học thuyết qua bất cứ nẻo đường nào (nhiều lúc kỳ quặc) vì là ‘mốt thời đại’, vì là ‘hàng ngoại nhập’ …? Nhiều lần chúng ta xấu hổ vì tin và vì đi tìm gặp Thiên Chúa trong kitô giáo cổ xưa.
Hãy cầu xin cho được ơn đức tin, đức cậy và đức mến, để nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và để chúng ta cũng được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, thông hiệp cùng với Người Con Duy Nhất của Ngài.
Thứ sáu Tuần IV MC
Kết án cho nó chết
Tin mừng hôm nay trình bày thảm kịch Đức Giêsu bị các đầu mục trong dân loại bỏ. Đức Giêsu phải ẩn mình, và dân chúng không biết phải nghĩ gì về Ngài, vì các đầu mục tôn giáo không tin Ngài là Đấng Messia. Các biệt phái không tin vào Đức Giêsu, vì họ xét đoán Ngài dựa theo luật lệ ngày Sabát và nghi thức thanh tẩy, mà không đi vào chiều sâu của giáo huấn của Ngài. Các tư tế từ chối Đức Giêsu vì lý do chính trị. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Thế giới hôm nay có đưa ra những lý do tương tự để chống đối và không tin lời dạy của Đức Giêsu, là những lời chứng thực căn tính của Ngài và mời gọi niềm tin không?
Đâu là những nguyên do của việc yếu kém đức tin? Chắc chắn là những hình thức tư tưởng hiện nay khác biệt với thời đại của đức Giêsu. Có lúc dựa vào khoa học, có lúc dựa vào những tập tục. Không chỉ những người theo chủ nghĩa Mácxít mới chối bỏ đức tin nhân danh một học thuyết chính trị. Xã hội tiêu thụ, chạy theo lợi nhuận vật chất, trong thực tế cũng đang chối bỏ như thế cho dù không học thuyết hóa nó. Và chúng ta, chúng ta có thể tin bằng cách chấp nhận thảm kịch của Đức Giêsu, và cùng với Ngài, chấp nhận bị loại trừ, bị lên án, hoặc hơn thế nữa bị những người xung quanh chống đối không? Có thể đó chỉ là một xung đột trong nội bộ của Giáo Hội dưới chiêu bài chủ nghĩa vụ hình thức luân lý, hoặc xung đột trong lòng của xã hội dân sự trong việc bảo vệ điều thiện hảo, bảo vệ người anh em và các quyền lợi sự sống của họ và đòi hỏi sự công bình cho họ. Là những nước nhận biết tin mừng từ bao thế kỷ, ta đã làm gì để đưa vào trong đời sống xã hội và chính trị những nguyên tắc của tình yêu đồng loại? Lẽ nào chúng ta không bị Đức Giêsu khiển trách, vì không tuân giữ luật Thiên Chúa, vì chúng ta giết hại người khác?
Thứ bảy Tuần IV MC
Số phận vị ngôn sứ
Đức Giêsu nhận lấy số phận của các ngôn sứ bị loại trừ và của tất cả những ai đang bị bỏ rơi. Ngài nhận nơi mình Ngài số phận của các quốc gia bị bách hại vì đã chiến đấu cho tự do, số phận của những người đấu tranh cho niềm tin mà bị kết án, cho dù họ bị bách hại bởi quyền lực vô thần hay bởi những tín đồ của một tôn giáo khác. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy có rất ít người bảo vệ Đức Giêsu. Các người canh giữ đền thờ không muốn bắt Ngài, và Nicôđêmô hỗ trợ Ngài cách kín đáo, bằng cách lập luận rằng người ta không lên án ai mà chưa nghe họ bàu chữa.
Trong thế giới ngày nay, chúng ta cũng tìm cách bảo vệ những người bị bách hại cách bất công, nhưng một cách nhút nhát. Có lúc chính quân đội từ chối bắn vào thường dân, như đã xảy ra ở các nước vùng Baltique. Có lúc trên trường chính trị người ta từ chối –hết sức nhút nhát- cho một cường quốc quyền được đàn áp một dân tộc. Thảm cảnh Đức Giêsu bị kết án, bị bắt và đóng đinh như Tin Mừng hôm nay tường thuật, vẫn còn tiếp diễn trong lịch sử nhân loại. Mỗi người chúng ta đóng một vai, trong thảm kịch đó. Đức Giêsu từ Thiên Chúa mà đến để chiến thắng sự dữ bằng tình yêu. Chiến thắng của Ngài hoàn tất trên thập giá.
Chiến thắng của Ngài không ngừng được thực hiện nơi chúng ta, bằng cách ngang qua thập giá. Chúng ta cần quan sát cảnh tượng của thế giới ngày nay dưới ánh sáng cuộc xét xử của Đức Giêsu và cuộc tranh luận gây ra từ chính con người của Ngài, khi Ngài sống và thi hành sứ mạng của Ngài tại Palestina. Chúng ta có thể nhận ra Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài trong Giáo Hội không? Quả thật chúng ta không loại bỏ một ai, cũng không xét xử một ai đó cách bất công sao? Chúng ta có thể nhận ra Đức Giêsu nơi những kẻ nghèo và nơi những nạn nhân trên thế giới không? Chúng ta đóng vai nào trong thảm kịch các ngôn sứ hiện nay đang bị loại trừ, trong thảm kịch hiện nay của Đức Giêsu Kitô và của tin mừng? Đức Giêsu? Nicôđêmô? Những người canh giữ đền thờ?
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Lễ Trọng Kính Thánh Giuse
Hôn phu của Mẹ Ngôi Lời nhập thể, Thánh Giuse đã được tuyển chọn làm ‘Đấng bảo vệ lời’. Tuy nhiên chúng ta không biết được lời nào của Ngài cả: Ngài đã phục vụ trong âm thầm, vâng phục Ngôi Lời mà các thiên sứ mạc khải qua giấc mộng.
Sự đồng ý của Giuse, cũng như của Maria, đòi một sự tuân phục hoàn toàn của ý chí. Giuse đã tin những gì mà Thiên Chúa phán; đã làm những gì Thiên Chúa dạy. Ơn gọi của Ngài là trao ban cho Đức Giêsu tất cả những gì mà một người cha trần gian có thể làm được: tình yêu, bảo vệ, đặt tên, nơi trú ngụ.
Lòng vâng phục Thiên Chúa của Giuse bao gồm việc tuân phục quyền bính hợp pháp. Ngài đã cùng bạn mình là Maria trở về Bêlem và như thế đã định nơi Ngôi Lời Nhập Thể hạ sinh. Thiên Chúa làm người đã được ghi vào sổ kiểm tra dân số, mà Hoàng Đế Xêda Augustô truyền lệnh, như là con của Giuse. Sau đó, niềm vui tìm được Đức Giêsu trong đền thờ có phần giảm bớt đi khi Giuse biết rằng Con Trẻ phải làm sứ vụ của Cha trên trời: Ngài chỉ là người cha nuôi. Nhưng, chấp nhận ý Chúa Cha, Thánh Giuse trở nên khiêm tốn giống Chúa Cha, và Chúa Con đã vâng phục Ngài. Đức Giêsu, ngay giây phút chết treo thập giá, đã trao ban sự sống cho Giuse và cho toàn thể nhân loại. Cuộc đời của Thánh Giuse đã dâng hiến cho Ngôi Lời, trong khi lời duy nhất mà Thánh cả ban tặng cho chúng ta cũng chính là cuộc sống của Ngài.
+++
Liên kết các bài đọc Lễ Truyền Tin
Mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, đã được mong chờ từ xa xưa, được các ngôn sứ loan báo (bài đọc 1), nay được thực hiện cách tròn đầy. Trang tin mừng mà ta đọc hôm nay tóm tắt tất cả lịch sử cứu độ và toàn bộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài’. Thiên Chúa không đi vào thế gian bằng sức mạnh: Ngài muốn đề nghị. Ngài muốn lời chấp thuận của Mẹ Maria (Tin Mừng). Lời Xin vâng là sự hoàn thành giao ước. Nơi Mẹ hiện diện cả dân tộc Israel và đồng thời hiện diện Giáo Hội vừa mới sinh ra. Thiên Chúa trở thành một người như chúng ta. Vĩnh cửu đi vào trong thời gian. Các bài đọc hướng chúng ta về mầu nhiệm phục sinh. Lời của Chúa Con vang lên: ‘Này Con xin đến, lạy Chúa, để thực thi ý Chúa’ (bài đọc 2), là lời mở đầu của sự vâng phục Chúa Cha cho đến mức chết trên thập giá.
Nội dung
Một ‘sắc chỉ’ tình yêu. Sắc chỉ của Ba Ngôi là sắc chỉ của tình yêu: vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một để cứu thế gian. Con người là chi trước mặt Thiên Chúa, vậy mà Ngài đã sai Con Một Ngài đến tái lập trật tự, kêu gọi con người từ chỗ sa ngã. Là một sắc chỉ của Ba Ngôi: Chúa Cha quyết định yêu thương, Chúa Con chấp nhận vâng phục Cha, Chúa Thánh Thần hoàn thành việc nhập thể cùng với lời ưng thuận của Maria. ĐGH Gioan Phaolô II trong thông điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc (số 9b) viết: ‘Việc truyền tin chính là mạc khải mầu nhiệm nhập thể đúng vào lúc mầu nhiệm ấy hoàn thành trên mặt đất. Việc trao ban cứu độ của Thiên Chúa cho cả tạo thành và trực tiếp cho con người chúng ta, đạt đến đỉnh cao trong mầu nhiệm nhập thể.
Ba Ngôi chọn con đường mầu nhiệm để cứu độ con người. Lẽ ra có thể chọn bằng cách ra sắc chỉ, bằng một hành động tỏ bày ý muốn của mình. Vì Thiên Chúa toàn năng. Nhưng chúng ta được mạc khải cho biết một chương trình mà không ai có thể tưởng nghĩ ra, mầu nhiệm được ẩn dấu mà Phaolô đã nói đến. Thiên Chúa đã chọn rẽ khúc ngoặt khi có thể đi thẳng đến đối tượng mà không có trở ngại nào.
Grêgôriô Nisse đã chú giải: những gì về quyền năng thần linh và siêu việt không phải là vũ trụ bao la, chẳng phải vẻ huy hoàng của tinh tú, cũng chẳng phải trật tự của vũ trụ, chẳng phải sự quan phòng liên lĩ trên các tạo vật, nhưng chính là việc hạ cố chấp nhận thân phận hèn yếu con người như chúng ta. Còn chứng cứ nào rõ ràng hơn về lòng tốt lành của Thiên Chúa.
Nên Thiên Chúa không chỉ bằng lòng cứu con người, nhưng còn muốn con người thông phần vào việc cứu độ. Maria xuất hiện như vị tinh tú sáng soi trong bóng đêm của tội lỗi. Được miễn trừ khỏi tội vì Mẹ đã chấp thuận chương trình cứu độ.
Mẹ bối rối. Không thể làm khác hơn trước một lời chào lạ thường như vậy. Sự hiện diện của Thiên Chúa luôn gây kinh ngạc và diệu kỳ, gây niềm kính sợ Thiên Chúa. Làm sao một thụ tạo như Mẹ lại được đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tỏ mình cho Mẹ với tình yêu tuyển chọn.
Sứ thần bày tỏ chương trình cứu độ. Là mầu nhiệm ẩn giấu. Là tuyệt đỉnh của chương trình cứu độ, của giao ước giữa Thiên Chúa và con người, là sự hoàn thành tin mừng nguyên khởi : ‘Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ của bà: người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người (St 3,15). Thiên Chúa đã muốn sinh hạ từ một phụ nữ. Trong thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế (13), ĐGH Gioan Phaolô II viết: ‘Thực vậy, khi được truyền tin, Đức Maria đã phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, bằng việc bày tỏ sự vâng phục đức tin vào Đấng phán với Mẹ qua sứ giả của Ngài và dâng lên Thiên Chúa sự quy phục hòan toàn của ý chí và lý trí. Mẹ đã đáp trả với cả con người nhân loại của mình, thân phận người phụ nữ, và lời đáp trả đức tin ấy hàm chứa một sự cộng tác tận tình với ân sủng dự bị và phù trợ của Thiên Chúa và một sự hoàn toàn sẳn sàng tiếp nhận tác động của Thánh Thần, Đấng không ngừng kiện toàn đức tin bằng các ân ban của Ngài’.
Chúng ta ghi nhận hai yếu tố trong lời đáp trả của Đức Maria: hoàn toàn cộng tác với ân sủng, và hoàn toàn sẳn sàng cho tác động của thánh Thần.
Gợi ý Mục vụ
1. Vâng phục con thảo. Thiên Chúa vào đời là một lời mời gọi mỗi người tín hữu thực hành lòng vâng phục con thảo đối với Chúa Cha. Thiên Chúa có chương trình cứu độ cho nhân loại và đặc biệt cho từng người. Còn lại chỉ là việc chúng ta đón nhận chương trình ấy với lòng khiêm tốn, với lòng vâng phục con thảo, biết rằng điều Thiên Chúa muốn cho chúng ta là điều tốt nhất. Duy chỉ dưới ánh sáng của việc Nhập Thể và của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, chúng ta mới có thể hiểu được thế giới, nổi đau khổ của bao người, huyền nhiệm của tội và của sự chết; không có nhập thể, thương khó, sự chết và sống lại của Chúa, chúng ta sẽ còn ở trong tội của mình, và cửa trời vẫn còn đóng kín.
2. Mẹ Maria, mẫu gương vâng phục và tình yêu hiến dâng. Cần nhắc lại đây số 46 của thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế: ‘Ở đây, Tôi (GP II) chỉ muốn nhấn mạnh điều này là dung mạo của Đức Maria Nagiarét rọi sáng cho chính thân phận người nữ qua việc Thiên Chúa, trong biến cố nhập thể của con Ngài, đã tín nhiệm vào việc phục vụ tự do và chủ động của một người phụ nữ. Như thế, người ta có thể quả quyết rằng người phụ nữ khi hướng về Đức Maria, tìm thấy nơi Mẹ bí quyết để sống xứng đáng nữ tính của mình, và thực thi sự thăng tiến đích thực của mình. Dưới ánh sáng của Đức Maria, Giáo Hội khám phá ra nơi dung mạo của người phụ nữ những nét phản chiếu một vẻ đẹp như tấm gương dọi lại những tâm tình cao đẹp nhất mà tâm hồn con người có thể có: đó là việc hoàn toàn hiến thân vì tình yêu, đó là sức mạnh chịu đựng những đau khổ lớn lao nhất, đó là trung tín vô hạn và sức hoạt động không mệt mỏi, là khả năng nối kết trực giác sâu sắc với lời nâng đỡ và khích lệ’.