Suy niệm chú giải Lời Chúa LỄ NGÀY GIÁNG SINH - Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chủ nhật - 22/12/2019 22:43  767
GIÁNG SINH- LỄ NGÀY
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ này tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
Is 52: 7-10
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
Dt 1: 1-6
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
Ga 1: 1-8
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng thứ tư; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về biến cố Nhập Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, ở Ba-by-lon và được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải phóng họ.
1.Bối cảnh:
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ mở ra cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi “loan tin vui, tin mừng” cho con cái Xi-on được hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa:
“Đẹp thay trền đồi núi
bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an,
người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng: ‘Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị’”.
Tin vui này khiến người ta sinh lòng ngờ vực vì những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa giải phóng dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài chứng minh rằng Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là vua của dân Ngài; vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
2.Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Hai khúc hoan ca sắp vang lên. Khúc hoan ca thứ nhất là tiếng reo mừng của những người canh gác, từ trên tường thành cao, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
Khúc hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên một lần nữa dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Xi-on”.
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài yếu đuối, nghèo khổ, lưu lạc khắp nơi: ấy vậy, chính mắt họ sắp phải nhận thấy rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt ra nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
“Hỡi Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế,
hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,
vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem”.
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ lưu đày vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này báo trước một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, khỏi cảnh giam cầm của tội lỗi, và thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
Bản văn này là Lời Tựa của thư gởi tín hữu Do thái. Lời Tựa này trình bày tư tưởng rất thân cận với Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày lễ Giáng Sinh này.
1.Chủ đề trung tâm của thư gởi tín hữu Do thái:
Thư gởi tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc đặt nhan đề “Thư gởi tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi gán cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, tác giả chứng tỏ chức tư tế Tân Ước cao trọng khôn sánh so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn đưa vào chủ đề này, Lời Tựa, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa:
2.Kiện toàn Mặc Khải:
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, chắc chắn bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải: “Thuở xưa, nhiều làn nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Lời mở đầu này gợi nhớ đến dụ ngôn về “những tá điền sát nhân” theo đó chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của ông. Thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này:
“Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia.
Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
3.Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa. Với tư cách con người, Ngài là Đấng thừa tự; với tư cách Thiên Chúa, Ngài là Đấng Tạo Hóa: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Ki-tô (Mê-si-a), vương quyền mà xưa kia Thiên Chúa đã hứa ban cho dòng dõi ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
4.Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ:
Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Tựa Ngôn:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành
và không có Người, thì không có gì được tạo thành” (Ga 1: 3).
Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
5. “Người là phản ảnh vẻ vinh quang:
Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và chân tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả mối thân tình mật thiết giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa:
“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,
là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26).
Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết:
“Ngôi lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người
Chúng tôi đã được nhìn thấy
vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 9, 14).
Điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả:
Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,
được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “Ngài là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, tư tưởng này tiến sát  với ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
6.Duy trì vạn vật:
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki-tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô:
“Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
7.Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
Trong bản tóm lược thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: Hy Tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì Hy Tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người, như gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12). Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
8.Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
 Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như thế giới vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn
Qumran cho thấy.
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Phi-líp-phê:
“Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng việc Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời vào những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít là Ngài sẽ ban cho vua một người con kế vị ngai báu của mình: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14). 
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
Tựa Ngôn là một bài thánh thi được viết theo thể thi ca khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng theo thể văn xuôi. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm. Bài thánh thi nầy hình thành nên một đơn vị văn chương nhờ kỷ thuật đóng khung: bắt đầu với câu 1 và kết thúc với câu 18, cả hai câu này đều có chung từ vựng và nội dung.
Trong bầu khí thánh thiêng của ngày lễ “Giáng Sinh”, xin được tập trung phần giải thích vào câu 14 mà thôi:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã nhìn thấy
vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
1.“Ngôi Lời đã trở nên người phàm”:
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Tự nguồn gốc, từ “Lời” được dịch từ Hy-ngữ: “Logos”, nhưng được tác giả sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy-ngữ này thấm nhuần từ “Daba” Cựu Ước. Như phàm nhân, chúng ta bảy tỏ chính mình qua những lời chúng ta nói và qua những việc chúng ta làm, vì thế Thiên Chúa suốt nhiều thế kỷ đã tự mặc khải mình ra qua những lời Ngài nói và những việc Ngài làm. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy-ngữ với mạo từ “ho logos” không diễn tả “Lời” một cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị: “Ngôi Lời”. Với biến cố Nhập thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và vĩnh viễn của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Trong Kinh Thánh, “xác thịt” không chỉ xác thể mà còn cả hồn, nghĩa là trọn vẹn con người. Ngôi Lời đã làm người, trở thành một phàm nhân, không có nghĩa là, khi đã làm người, Ngôi Lời không còn là Thiên Chúa nữa. Khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
2. “Và cư ngụ giữa chúng ta”:
 Câu này dịch sát từ: “Và dựng lều (hay cắm lều) ở giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều” hay “cắm lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” hay “cắm lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “cắm lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái cắm lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê rằng Ngài sẽ đồng hành với dân lên Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa cắm lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
Từ đó, “dựng lều” hay “cắm lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
3. “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người”:
Trong Cựu Ước, nói “vinh quang của Thiên Chúa” là nói “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những phép lạ Thiên Chúa thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, là những thành quả của quyền năng và vinh quang Thiên Chúa (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những phép lạ, đặc biệt sự kiện phục sinh (13: 31; 17: 2-5; 12: 23, 28). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các phép lạ Người làm lúc sinh thời”. Những phép lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
Như thế, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết Thiên Chúa hiện diện và vinh quang của Ngài rực rỡ đến nỗi người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các phép lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là cuộc Tử Nạn mà cuộc Phục Sinh là một sự tỏ mình thập phần vinh quang: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28; 17: 5).
Trong bầu khí thánh thiêng của ngày lễ Giáng Sinh này, vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự tương phản giữa lời loan báo tin mừng cách long trọng của sứ thần về cuộc Giáng Sinh của Con Thiên Chúa: Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho tất cả toàn dân: Hôm nay, Chúa Ki tô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đa-vít với dấu chỉ để nhận ra Ngài: Một Hài Nhi mới sinh, được bọc trong khăn vải và đặt trong máng cỏChính cái tương phản này mời gọi mỗi người gẫm suy về mầu nhiệm Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta ở nơi sự hiện diện nhỏ bé, đơn sơ, nghèo hèn của Hài Nhi Bê-lem nầy. Để thật sự sống kiếp phàm nhân, Con Thiên Chúa tôn trọng mọi chiều kích của kiếp người: Ngài sinh ra như một hài nhi cần được cha mẹ yêu thương, che chở, bảo vệ đùm bọc, cần được tiếng mẹ ru âu yếm vỗ về giấc ngủ của mình như bao nhiêu hài nhi khác. Nhưng để sống kiếp phàm nhân, Ngài có quyền chọn cho mình một gia đình giàu có quyền thế, thậm chí một gia đình vua chúa để được sinh ra trong nệm ấm chăn êm có người hầu kẻ hạ. Tại sao Ngài chọn một gia đình nghèo khó để rồi phải sinh ra đầu đường xó chợ đến mức chiếc tả đầu đời để ủ ấm Ngài là chiếc khăn che đầu một nắng hai sương của mẹ Ngài; chiếc nôi đầu đời của Ngài là máng cỏ bò lừa ăn?
Khi chọn cho mình một hoàn cảnh sinh ra nghèo hèn như thế để bước vào cuộc sống của con người, Con Thiên Chúa muốn sống tận cùng thân phận làm người với những hệ lụy của kiếp sống nhân sinh, Ngài muốn được cảm nhận những hoàn cảnh cùng cực của con người ngay trong chính bản thân của mình, để chia sẻ, cảm thông và yêu thương. Đó là vốn liếng đầu đời của một vị Thiên Chúa làm người để sau này trong cuộc đời công khai, Ngài đã thấu hiểu hơn ai hết những cảnh đời khốn khổ của những con người nghèo hèn, cảm thương những bất toàn yếu đuối của con người. Tin Mừng còn ghi lại cho chúng ta, Ngài đã trân trọng những giọt nước mắt thống hối ăn năn chân thành của một phụ nữ vốn nổi tiếng tội lỗi trong thành. Ngài đã đáp trả những trăn trở của ông Da-kêu muốn vươn mình ra khỏi cuộc đời tội lỗi của mình. Ngài đã xót thương nỗi đau của một bà goá mất đứa con trai độc nhất của mình. Ngài đã cảm thấy nỗi đau tận đáy lòng mình trước cảnh đám đông dân chúng đang vất vã lầm than. Ngài rất nhạy bén trước những giá trị cao cả của những con người hèn mọn ẩn chứa ở nơi những đều nhỏ bé như một đồng xu của một bà góa dâng cúng hay một bát nước lã cho anh chị em đang khát. Vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ cách tuyệt mức ở nơi Một Hài Nhi mới sinh, được bọc trong khăn vải và đặt trong máng cỏ.
4. “Vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”:
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng”“sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “giàu lòng nhân nghĩa”“thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu lòng nhân nghĩa và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, cũng trọn niềm yêu thương và hay tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập170
  • Máy chủ tìm kiếm71
  • Khách viếng thăm99
  • Hôm nay44,250
  • Tháng hiện tại706,594
  • Tổng lượt truy cập56,403,141

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây