SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN A - LM. INHAXIO HỒ THÔNG

Thứ hai - 14/08/2017 22:28  1543
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN A
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng lòng mình để đón tiếp muôn dân nước, tức là bất kỳ ai, dù thuộc dân tộc nàò, nếu bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa chân thật.
Is 56: 1, 6-7
Bài Đọc I là sứ điệp loan báo ơn cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận vào cộng đồng mình những kiều cư, những ai kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Rm 11: 13-15, 29-32
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của thánh nhân, vì dân Do thái, dân Chúa chọn, từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.
Mt 15: 21-28
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật câu chuyện Đức Giê-su với một người đàn bà xứ Ca-na-an. Cuối cùng Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của người đàn bà ngoại giáo nầy và ca ngợi đức tin của bà.
BÀI ĐỌC I (Is 56: 1, 6-7)
Đoạn trích nầy mở ra phần thứ ba của sách I-sai-a. Phần thứ ba nầy, xét toàn bộ, được gán cho vị ngôn sứ biệt danh là I-sai-a đệ tam (ch. 56-66), vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới danh nghĩa của vị ngôn sứ I-sai-a vĩ đại (ch. 1-39).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 trước Công Nguyên). Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố sứ điệp gởi đến muôn dân nước.
1.Những kiều cư.
Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn những “kiều cư” ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người ngoại bang đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân cư bị đưa đi lưu đày. Đối với những người ngoại bang đến định cư lập nghiệp, luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi nào đó. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19: 33-34).
Trái lại, những những người “nhập cư”, tức những người ngoại quốc sinh sống trong một thời gian hạn định nào đó, không hưởng được bất kỳ một quyền lợi nào khác ngoài phong tục tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản là những người này được cư xử với lòng khoan dung độ lượng, đôi khi bị đồng hóa với những kẻ thù; họ bị cấm không được tham dự phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.
“Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56: 1).
Qua những lời này, vị ngôn sứ, “nhân danh đức công chính và điều chính trực”, tố cáo những kỳ thị như thế. Đức Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người thân cô phận hèn.
2.Yêu mến Danh Người.
Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát để đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en:
“Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa
để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta” (Is 56: 6)
Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế, “Yêu mến Thánh Danh” đồng nghĩa “yêu mến chính Thiên Chúa”. Diễn ngữ: “Yêu mến Thánh Danh”, không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Kiểu nói: “Để phụng sự”, không gợi lên bất kỳ phụng sự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” chỉ chung các tín hữu.
Trong câu nói: hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, điểm nhấn được đặt trên việc tuân giữ “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy một tầm quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu hiệu biệt phân, nhờ đó người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.
Câu nói: cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta”, tóm gọn những đòi hỏi được liệt kê ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-ma, ông Co-nê-li-ô.
3.Sứ điệp phổ quát.
Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và tháp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa:
“Đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56: 7a).
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Đức Chúa. Các “thánh vịnh lên Đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:
“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,
tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con” (Tv 43: 4),
Chúng ta cũng gặp thấy như vậy trong lời khẳng định của Thiên Chúa qua vị ngôn sứ của mình:
“Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận,
những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7b).
Lời khẳng định nầy mang một cung điệu đặc biệt, một cung điệu mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại lời khẳng định nầy khi Ngài xua đuổi những người buôn bán ra khỏi khuôn viên Đền thờ, chính xác là nơi dành cho dân ngoại mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Hành vi của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng tất cả điều nầy rồi sẽ sớm biến mất, nhưng nơi nầy phải được dành cho muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15, 29-33)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với các bài đọc khác của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy: cả ba bài đọc đều nói về việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân.
Việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân nầy càng khẩn thiết hơn khi dân Do thái, nói chung, cố chấp trong sự mù quáng của mình. Đó là nguyên do tại sao thánh Phao-lô ưu phiền. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người Ki-tô hữu gốc dân ngoại: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại”.
Thánh Phao-lô tự đặt mình lần lượt vào trong hai viễn cảnh: viễn cảnh của chính ngài, vị Tông Đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.
1.Viễn cảnh của vị Tông Đồ dân ngoại (Rm 11: 13-15)
Đọc đoạn văn này lần đầu, chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô hiến trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: làm cho đồng bào Do thái của mình ganh tị khi thấy việc dân ngoại mỗi ngày mỗi thêm đông được dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thế chỗ cho dân Chúa chọn. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong hoạt động truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định kèm theo của thánh nhân: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. Thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của “một ít người” như mầm mống và bảo chứng cho việc cảm hóa đức tin của tất cả mọi người. Nếu dân Do thái bị gạt ra bên lề, đó lại là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại. Nếu giai đoạn đầu tiên là ơn cứu độ phổ quát cho muôn người, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy khi mà toàn thể dân Ít-ra-en được tái tháp nhập vào cộng đồng đức tin, tức là “từ cõi chết bước vào cõi sống”.
2.Viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương (Rm 11: 29-33)
Đối với vị Tông Đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ơn gọi của dân Chúa chọn không thể nào đổi thay: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn  và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”.
Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”. Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng để có thể cư xử với nhau một cách chính trực và nhân ái, nhưng họ đã lún sâu vào trong sự bất chính và tôn thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Đến phiên mình, dân Do thái, đến thời Thiên Sai, đã không thấy ánh sáng và cũng đã không vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc bất phục tùng của dân Ít-ra-en và sự hoán cải của dân ngoại. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc dân Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các Tông Đồ khác đã quyết định quay về phía dân ngoại. Nhưng, còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý trong ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo lối hành văn biền ngẫu đặc thù của dân Do thái, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Chúa xót thương: chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân ngoại đã có thể trở lại cùng Thiên Chúa, thì cũng chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân Ít-ra-en cũng sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh nhân tóm lược kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.
TIN MỪNG ( Mt 15: 21-28)
Câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều và việc đám đông dân chúng không nhận ra sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su quyết định tập trung sứ vụ của mình vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Thế nên, “Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Hiện thời, Ngài đang ở miền đất dân ngoại sau khi đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông dân Do thái và những luật sĩ, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để tìm cớ hãm hại Ngài. Trong bầu khí thanh bình của miền đất dân ngoại, Ngài dành hết thời giờ cho các môn đệ để chuẩn bị sứ vụ tương lai của họ.
Dân Ca-na-an là tên gọi cổ xưa của dân Phê-ni-xi. Thánh Mát-thêu sử dụng cách nói “người đàn bà Ca-na-an” không vì quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì tên gọi nầy nhắc lại quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà Sa-ma-ri” để gợi lại ở nơi tên gọi nầy những thù hiềm thâm căn cố đế giữa hai dân tộc nầy (Ga 4: 8). Thêm nữa, khi nói: “người đàn bà Ca-na-an” chứ không “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn xác định nguồn gốc của bà: bà nầy là dân ngoại, chứ không phải là một người Do thái đến sinh sống ở miền đất Ca-na-an.
1.Cuộc gặp gỡ của người đàn bà Ca-na-an với Đức Giê-su:
Người đàn bà Ca-na-an đã nghe người ta đồn thổi về Đức Giê-su và bà đã biết Đức Giê-su hiện đang có mặt ở trong miền. Vì thế, không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, bà đã vội vả đến gặp Ngài để khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con gái bà như của chính bà”, còn William Barclay thì xoáy sâu vào tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su”.
[1]
Trong lời kêu xin của mình: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”, bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu thiên sai: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc thù của Do thái giáo cho Đức Giê-su? Hay đúng hơn thánh ký muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên? Lời khẩn cầu nầy vang lên như cung điệu phụng vụ: “Xin Chúa, xin thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích phổ quát vĩ đại của câu chuyện.
2.Thái độ của Đức Giê-su.
Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Người đàn bà không hề nhụt chí vẫn một mực bám riết theo Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ cũng phải cảm thương.
3.Một đức tin chịu thử thách.
Cảm thương người phụ nữ này vừa lẻo đẻo theo sau vừa khẩn khoản van nài đến độ các môn đệ không thể nín lặng được nên cầu xin Đức Giê-su lên tiếng bảo bà ấy về đi cho xong chuyện. Đức Giê-su đáp lại bằng cách từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” (Mt 10: 5-6).
Quả thật, Đức Giê-su đặt ưu tiên sứ vụ của Ngài cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng xót thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản ngoại giáo tại Ca-pha-na-um cho người đầy tớ đau nặng của ông được lành bệnh. Có biết bao nhiêu sự việc tương tự như thế giữa câu chuyện của viên quan ngoại giáo và câu chuyện người đàn bà Ca-na-an. Ngài không khíp kín từ tâm đối với dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa của sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian của các môn đệ Ngài, họ sẽ thực hiện tất cả mọi chiều kích rộng mở cho muôn dân nước.
Lời từ chối thẳng thừng của Đức Giê-su cũng không làm người phụ nữ này chùn bước. Bà đến sụp lạy mà van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Đức Giê-su nói thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại!”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” từ Hy lạp “kunaria” gợi lên chó cưng nuôi trong nhà, đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song đối của mình, đặt bối cảnh nầy vào “trong một nhà nọ” (Mc 7: 24). Quả thật, câu nói của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ và được định vị trong cùng một bối cảnh trong nhà: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.
4.Đức tin rực sáng của người đàn bà Ca-na-an.
Người đàn bà Ca-na-an đáp trả với tất cả tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết trong quê hương của Ngài: “Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh dân Do thái, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.
Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên quan ngoại giáo. Ngài nhậm lời khẩn cầu của bà.
5.Dấu chỉ của bánh.
Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi dưỡng no nê bánh vật chất, nhưng chỉ là tiên báo bánh thần linh, như bánh man-na trong sa mạc tiên báo những thiện hảo của thời Mê-si-a. Chính từ bánh nầy mà người đàn bà Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Vương Quốc mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh nhận được chỉ thị của Đấng Phục Sinh là phân phát trọn vẹn cho muôn dân.
 

[1] W. BARCLAY, The Gospel of Matthew, bản dịch tiếng Việt tập, nhà xuất bản Đức Bà Hòa Bình, tập II, tr. 100.
 
LM. INHAXIO HỒ THÔNG

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập64
  • Máy chủ tìm kiếm13
  • Khách viếng thăm51
  • Hôm nay37,467
  • Tháng hiện tại844,025
  • Tổng lượt truy cập56,540,572

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây