Suy niệm Chúa nhật III Mùa Chay B (2)- nhiều tác giả

Thứ hai - 26/02/2018 21:59  1080
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25

MỤC LỤC
41. Thanh tẩy đền thờ
42. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
43. Nhà Ta là nhà cầu nguyện
44. Đức Giêsu tại Samari- JKN.. 
45. Tẩy rửa – Lm. Vũ Đình Tường
46. Phải bị thiệt thân
47. "Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
48. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 
49. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
50. Chú giải của Noel Quesson
51. Chú giải của William Barclay
52. Giữ các giới răn
53. Người bị kết án tử hình
54. Mười điều răn mới 
55. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
56. Tẩy uế đền thờ

41. Thanh tẩy đền thờ

Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết sức đau lòng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Nguời người lố nhố kỳ kèo bớt một thêm hai, người mua trả giá xuống, kẻ bán lại chần chừ, đâu đó có tiếng người cãi cọ, văng tục nữa. Người đổi tiền thì rủn rẻn những đồng tiền vừa trao đổi, vui cười tít mắt vì lợi nhuận đã thu được. Gần đến lễ Vượt Qua nhiều người Do thái từ mọi miền trở về để mừng đại lễ của họ. Đây là cơ hội vô cùng tốt đẹp để những người buôn bán trong đền thờ hưởng lợi, trong số những người được hưởng lợi đó làm sao lại không có giới tư tế quản lý Đền thờ? Việc chính là dâng những lễ tế thờ phượng Thiên Chúa, nhưng sự ngọt ngào, hấp dẫn của đồng tiền lại che lấp tất cả, che cả Chúa! Đền thờ của Thiên Chúa đó sao? Thật đáng buồn, đáng tức giận! Chúa Giêsu không chỉ buồn, không chỉ giận mà còn đau, đau nhiều lắm. Chúa đã dùng dây làm roi để đánh, vừa đánh vừa đuổi. Người ta thường bảo " giận quá thì mất khôn " , nhưng Chúa Giêsu giận mà không mất khôn. Vì Chúa không đánh họ cho chết bỏ, đánh cho hả dạ, đánh cho đã tức mà đánh để dạy: " đừng biến nhà ta Cha ta thành nơi buôn bán và là sào huyệt của bọn trộm cướp ". Thực ra những thứ đuợc bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ như cung cấp các lễ vật để tế lễ cho Thiên Chúa, dịch vụ đổi tiền để giúp tiện lợi trong việc đóng thuế cho Đền thờ. Nhưng điều đáng tiếc là những việc đó đã làm sai lệch việc thờ phượng, vì người bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng nhờ những thứ đó họ có thể mua lòng được Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa khi nhận lễ vật thì phải nghe theo lời họ cầu xin, họ kêu ngạo quá chừng, không thể chấp nhận được. Họ xem Thiên Chúa là sở hữu riêng ở trong tay mình. Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, là Đấng tạo thành vạn vật, nhưng giờ đây con người đã vô phép bắt Thiên Chúa phải nghe theo lời con người như nô lệ phải vâng lời ông chủ, bởi ông chủ có tiền trong tay. Thật vô lý láo xược vô cùng. Đúng là châu chấu đá xe mà! thật không biết tự lượng sức mình. Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là kẻ phản động, vì Chúa Giêsu không có chức tư tế, cũng không hề có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Họ hỏi Chúa Giêsu: " Ông con kia, ông lấy quyền gì mà làm như thế? " Chúa Giêsu trả lời họ: " Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày, ta sẽ xây lại. " Chúa Giêsu muốn ám chỉ Ngài là Đền thờ mới, nhưng người Do thái không hiểu. Quả thực Chúa Giêsu là Đền thờ mới, Ngài đòi hỏi phải có nền phụng tự mới. Chúa Giêsu đánh đuổi người buôn bán, xô đẩy các súc vật, hất tung những đồng tiền của họ là một hành động tiên tri; vì các thứ ấy không có lý do tồn tại nữa, Chúa Giêsu đến thay thế mọi sự, Người chính là Đền thờ mới, trên thập giá Người hiến mình làm lễ vật tiến dâng cho Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đền thờ mới, nơi đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy ". Mỗi Kitô hữu chúng ta nhờ Bí tích Rửa tội và Thánh Thể được trở nên đền thờ của Chúa. Là Đền thờ của Chúa nghĩa là nơi Chúa ngự, nơi anh chị em chung quanh có thể gặp được Chúa. Chúng ta hãy xét mình xem, Đền thờ của Chúa nơi chúng ta có còn chỗ cho Chúa ngự không hay ta dã để cho tội lội và các sự xấu xâm chiếm hết chỗ rồi. Mùa chay là thời gian thích hợp để chúng ta thanh tẩy lòng mình nên tinh sạch va mới mẻ bằng cách tránh xa tội lỗi, xin Chúa tha tội giúp chúng ta sống xứng đáng làm con cái Chúa, là nơi Chúa ngự, là nơi anh chị em gặp Chúa.
 

42. Chúa Nhật 3 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.

 

43. Nhà Ta là nhà cầu nguyện

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Theo luật Môsê thì việc thờ phượng gồm có mục dâng con vật sống để làm lễ vật hi sinh. Luật Môsê buộc cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đó là lý do tại sao sau khi Chúa cứu thế giáng sinh thì được cha nuôi và mẹ Người dâng vào đền thờ. Khi dâng Chúa trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria vì nghèo nên chỉ mang được đôi chim câu làm lễ vật.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật, Người lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh đền thờ? Thưa rằng việc dâng hiến lễ vât của họ đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì coi việc dâng lễ vật như là bổn phận phải làm một cách bất đắc dĩ mà thiếu tâm tình bên trong.
Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà cha ta thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc trần tục hoá và thương mại hoá Đền Thờ. Phúc âm thánh Matthêu (21:14), Maccô (11:17), và Luca (19:36) còn trích Sách tiên tri Isaia để cảnh giác họ: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp (Is 56:7). Người Do thái thường tỏ ra tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật của họ. Họ thường cảm tạ Thiên Chúa cho họ có được đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật. Nếu bạn có dịp sang Giêrusalem mà đến đền thờ đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một phần tường đền thờ, mà người ta gọi là tường ô nhục, bạn sẽ thấy người Do thái gục đầu vào tường mà than khóc, vì đền thờ của họ đã bị phá huỷ mà chưa xây được đền thờ mới. Còn thực tế và cụ thể hơn, người Hồi giáo khi vào đền thờ của họ, phải để giày bên ngoài. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giày, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giày nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn thế nào? Tuy nhiên để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Sống ở đô thị hay ở ngoại quốc, ta có dịp va chạm với nhiều người thuộc các tôn giáo khác nhau, và được mời đến nơi thờ phượng của họ, có thể giúp ta làm tăng triển, hoặc làm giảm căn tính tôn giáo của mình khi vào nhà thờ. Nếu vào nhà thờ có Mình Thánh Chúa ngự, mà ta tỏ ra những cử chỉ như đi đứng nghêng ngang, xỏ tay túi quần giống như vào xem viện bảo tàng hay nhà triển lãm thì ta cần xét lại cái căn tính tôn giáo của mình.
Kinh Thánh hôm nay nhắc nhở cho ta: Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi (Tv 69:10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ gìn sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết trong nhà thờ, nơi thờ phượng thì không chạy nhảy, la hét, không xả rác rưởi, không chơi đồ chơi phát ra tiếng động... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn, và bảo trì nhà Chúa.

 

44. Đức Giêsu tại Samari- JKN

Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ «đã đến giờ» và «giờ đã đến - và chính là lúc này đây» trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí»? Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật»? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu «mới» của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật ».
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: «Đã đến giờ», «Giờ đã đến - và chính là lúc này đây». Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật»?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí». Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: «Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi» (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: «Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời» (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là «cái tôi» ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: «Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người». Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích» (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: «Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con», nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: «Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu» (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!»

 

45. Tẩy rửa – Lm. Vũ Đình Tường

Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ' buôn bán hay chợ búa'. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.

 

46. Phải bị thiệt thân

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti...
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá ( église - church ): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ... là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ ( Église - Church ): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là "bọn Nhà Thờ" hay "Nhà Thờ", mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có "chức vụ cao trọng" được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào ( x. Mc 2,27 ). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện "phép vua thua lệ làng" hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành " người hầu thiên hạ" thì cũng không phải là việc một sớm một chiều ( x.Mc 9,35 ). Chuyện "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện" là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng "cha chú" đó đây, thì cũng dễ bị hứng "búa rìu" cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. "Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân" ( Quản Trọng ). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành ( x.Mt 19,16-19 ). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức "thờ ngẫu tượng". Chúa Kitô cũng đã từng ví "của tiền" ( dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị ) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ ( x.Lc 16,13 ). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh...( 1 Cr 1,22 ). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá "thân thể Người" để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy ( x.Ga 15,20 ). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie -Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI... là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo "chủ nghĩa cơ hội" thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.

 

47. "Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"

Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt thánh". Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.

 

48. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh Gioan kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức Kitô, để “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa Kitô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gioan nói Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giêsu nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa Giêsu nói với mọi người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu không chỉ đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giêsu, mà còn nhờ Chúa Giêsu ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giêsu thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Chỉ trong Chúa Giêsu mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn muốn mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên một đền thờ sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Kitô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn bán”. Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là “sào huyệt của bọn cướp”. Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm Chúa Kitô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh Đền thánh việc buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ, đặt chỉ tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta “đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem “tất cả ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giêsu, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự thật và thần khí? Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính cách cá nhân và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.”
- dựa theo lời của thánh Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)

 

49. Chú giải của Lm Vũ Phan Long

ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?

 

50. Chú giải của Noel Quesson

Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.

 

51. Chú giải của William Barclay

CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (2,12-16)
Bây giờ chúng ta hãy xét xem tại sao Chúa Giêsu hành động như thế. Cơn giận của Ngài là một điều đáng sợ. Hình ảnh Chúa Cứu Thế cầm roi khiến chúng ta phải kinh hãi. Điều gì đã khiến Ngài nổi cơn giận thánh tại sân Đền Thờ như vậy?
Trong các ngày lễ của dân Do Thái, lễ Vượt Qua là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, luật quy định mỗi người nam Do Thái trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đó dự lễ. Nhưng không phải chỉ có người Do Thái trong xứ Palestine đến dự lễ Vượt Qua. Thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dù sống ở xứ nào, họ vẫn mong ước và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất một lần. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc nhưng dường như đã có đến hai triệu hai trăm ngàn người Do Thái đã tập họp về xứ thánh dự lễ Vượt Qua.
Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái, nên có thể dùng dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa.
Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp. Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.
Việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Từ chỉ tiền lời là kollubos, những kẻ đổi bạc được gọi là kollubistai. Chữ này sản sinh một vai hề tên kollybos trong tiếng Hy Lạp, trong tiếng La Tinh là Collybus. Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có số người bán bò, chiên, bồ câu. Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra con vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần hơn giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Gioan biết là Chúa đã lấy dây bện thành một cái roi. Thánh Jerôme nghĩ rằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu cũng đủ rồi, không cần đến cây roi nữa. “Một tia giận sáng như sao từ đôi mắt Ngài chiếu ra, và oai nghi của Chúa rạng ngời khuôn mặt Ngài”. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, và chính vì yêu mến các con cái Thiên Chúa, cho nên Ngài không thể thụ động đứng ngoài vòng, trong khi những kẻ khốn khổ đến Đền Thờ để thờ phượng Chúa tại Giêrusalem bị đối xử như thế.
CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (Ga 2,12-16)
Chính những kẻ vô lương tâm, bóc lột khách hành hương đã khiến Chúa Giêsu nổi giận, nhưng phía sau sự kiện dọn sạch Đền Thờ này còn có nhiều điều sâu sắc. Chúng ta thử đi sâu hơn vào các lý do đã khiến Chúa Giêsu mạnh tay như thế.
Để có một bức tranh chính xác về lời Chúa Giêsu nói, chúng ta ghi ra những gì các tác giả Phúc Âm đã nhớ và chép lại, vì mỗi người đã tường thuật một cách. Mátthêu ghi lại lời Chúa Giêsu nói: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt 21,13). Maccô viết: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân… Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mc 11,17). Luca thì chép: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện song các ngươi làm thành ra một cái hang trộm cướp”. Gioan viết: “Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán” (Ga 2,16). Có ít nhất ba lý do khiến Chúa Giêsu hành động như vậy, tại sao Ngài nổi giận:
1) Chúa Giêsu làm như vậy vì nhà của Chúa đã bị xúc phạm. Trong Đền Thờ, có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Lòng tôn kính là một bản năng bẩm sinh. Nhà nghệ sĩ Edward Seago kể lại có lần ông dẫn hai đứa bé du mục vào một nhà thờ lớn ở Anh. Hai đứa bé này bình thường rất ngỗ nghịch. Nhưng khi vào trong đại giáo đường, chúng giữ yên lặng cách kỳ lạ. Trên đường về, chúng tỏ ra trang trọng cách khác thường, cho đến tối chúng mới trở lại nghịch ngợm bình thường. Bản năng tôn kính nằm sâu trong lòng chúng ta.
2) Chúa Giêsu hành động như thế để chứng minh việc dâng con vật làm sinh tế không còn thích đáng nữa. Từ nhiều thế kỷ trước, các ngôn sứ đã nói: “Đức Chúa phán: Muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến Ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu chiên đực và mỡ của bò con mập. Ta chẳng hài lòng về máu của bò đực, chiên con và dê đực đâu. Thôi đừng dâng của lễ chay vô ích cho Ta nữa” (Is 1,11-17). “Vì Ta đã đem tổ phụ các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, Ta chẳng hề phán và chẳng hề truyền lệnh gì về của lễ toàn thiêu và các của lễ khác” (Gr 7,22). “Chúng nó sẽ đi với các bầy chiên, đàn bò để tìm kiếm Đức Chúa, song không thấy Ngài” (Os 5,6). “Còn như của lễ dâng cho Ta thì chúng nó dâng thịt và thức ăn, nhưng Đức Chúa chẳng nhận đâu” (Os 8,13), “Vì Chúa không ưa thích của lễ, nếu Ngài ưa tôi chắc đã dâng. Của lễ toàn thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Tv 51,16). Tiếng nói ngôn sứ luôn nhắc đi nhắc lại với loài người tính cách bất thích hợp của các lễ toàn thiêu và các sinh tế vẫn còn tiếp tục bốc khói từ bàn thờ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu hành động như vậy là để chứng tỏ không có một lễ vật hay một sinh tế nào có thể làm cho loài người hòa thuận lại với Chúa được.
Ngày nay chúng ta cũng không thoát khỏi khuynh hướng này. Chúng ta không còn dâng sinh vật làm của lễ cho Chúa. Nhưng chúng ta đồng hóa việc phục vụ Chúa với việc lắp đặt những cửa sổ bằng kính màu, việc có thêm một cây đàn phong cầm vang tiếng hơn, việc hao phí thực hiện nhiều công trình chạm trổ trên đá, trên thạch cao, trên gỗ quý, trong khi tinh thần thờ phượng đích thực không thấy đâu. Chúng ta không lên án những việc đó, trái lại tạ ơn Chúa, điều đó thường là do những tấm lòng yêu mến Chúa dâng hiến. Chúng được dùng hỗ trợ cho thờ phượng chân thật, là những việc được Chúa ban phước; nhưng khi chúng thay thế cho lòng thờ phượng chân thật, thì lại khiến Chúa phải ghê tởm.
3) Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà Maccô có thêm một chi tiết đáng chú ý, không tác giả nào đề cập đến: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Đền Thờ gồm nhiều hành lang (sân) dẫn đến bên trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để suy gẫm, cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất của họ.
Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu trên hết; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng nhiều ý nghĩa đó. Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn trở như vậy.
Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta, giai cấp, kỳ thị, lạnh lùng, kém niềm nở, khuynh hướng biến cộng đoàn thành một câu lạc bộ khép kín, thái độ kiêu căng, làm khó, đã ngăn trở những người lạ có lòng tìm kiếm Chúa phải ở bên ngoài hay không? Chúng ta nên nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó những người thiện chí tìm Chúa nhưng không thể tiếp nhận Ngài được.
ĐỀN THỜ MỚI (Ga 2,17-22)
Một hành động, như việc dọn sạch Đền Thờ, chắc chắn phải gây phản ứng tức khắc từ phía những người đã mục kích. Đây không phải là loại sự việc mà người ta có thể đứng nhìn với thái độ hoàn toàn dửng dưng, vì hành động đó quá táo bạo.
Có hai phản ứng. Một là phản ứng của các môn đệ của Chúa. Họ nhớ lại những lời trong Thánh Vịnh 69,9; được xem như chỉ về Đấng Mêsia. Khi Đấng Mêsia đến, Ngài có lòng sốt sắng, nóng nảy như nung nấu về nhà Chúa. Khi Thánh Vịnh này hiện lên trong trí các môn đệ, thì niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia càng sâu xa và dứt khoát hơn. Hành động ấy không thích hợp với ai khác ngoài Đấng Mêsia. Các môn đệ càng tin hơn bao giờ hết Chúa Giêsu đúng là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa.
Hai là phản ứng tất nhiên của người Do Thái. Họ hỏi Chúa Giêsu lấy quyền gì để hành động như vậy, và đòi Ngài phải làm một dấu lạ để chứng minh thẩm quyền của Ngài. Họ nhìn nhận hành động của Chúa Giêsu là hành động tự tuyên xưng của Đấng Mêsia. Người ta luôn luôn trông chờ Đấng Mêsia, khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng minh và bảo đảm những lời xưng nhận của Ngài bằng nhiều phép lạ. Thật ra nhiều Mêsia giả đã xuất hiện, và hứa sẽ rẽ nước sông Giođan làm hai, hoặc chỉ nói một lời thì các vách thành liền đổ xuống. Ý niệm phổ thông về Đấng Mêsia gắn liền với phép lạ. Do đó, người Do Thái mới nói: “Bằng hành động dọn sạch Đền Thờ, Thầy đã công khai tự xưng là Đấng Mêsia, bây giờ, hãy cho chúng tôi thấy phép lạ để chứng minh lời tự xưng đó của Thầy”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu đã tạo nên vấn đề lớn cho đoạn này. Chúa Giêsu thật sự đã nói gì? Ngài muốn ngụ ý gì? Chúng ta thấy rõ hai câu 21, 22 là lời diễn giải Gioan viết sau này. Tất nhiên ông đã đưa các ý niệm vốn là kết quả của 70 năm suy nghĩ và kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Phục Sinh vào đoạn này. Giáo phụ Irenaeus kinh nghiệm: “Không có lời tiên tri nào được thấu hiểu đầy đủ, cho đến khi nó đã được ứng nghiệm”. Nhưng nguyên thủy, Chúa Giêsu nói gì, và đã ngụ ý gì?
Không có gì để nghi ngờ là Chúa Giêsu đã nói mấy lời giống như câu này, những lời có thể bị những kẻ quỷ quyệt xuyên tạc thành lời tuyên xưng có tính cách phá hoại. Lúc Chúa Giêsu bị đem ra xét xử, có lời chứng dối đưa ra để tố cáo Ngài: “Người này nói: Ta có thể phá Đền Thờ của Chúa rồi dựng lại trong ba ngày” (Mt 26,61). Lời tố cáo chống lại Têphanô: “Chúng ta đã nghe người này nói rằng Giêsu ở Nagiarét sẽ phá nơi đây và đổi tục lệ Môsê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14)
Có hai điều chúng ta phải nhớ và ghép chúng lại với nhau. Trước hết, chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ bảo Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ bằng vật liệu thấy được ấy, rồi sẽ xây dựng lại. Thật ra, Chúa Giêsu chờ ngày chấm dứt Đền Thờ. Ngài đã nói cùng người đàn bà Samari, đã đến ngày mà người ta không còn thờ phượng Đức Chúa Trời hoặc trên núi Garidim, hoặc tại Giêrusalem, nhưng phải thờ phượng Ngài bằng tinh thần và chân lý (Ga 4,21). Điều thứ hai, có thể việc Chúa Giêsu mạnh tay dọn sạch Đền Thờ là một cách để chứng tỏ toàn thể thờ phượng với nghi lễ và lễ vật đó không còn phù hợp, và không thể đưa người ta đến với Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã dự liệu đền thờ này sẽ bị phá bỏ, Ngài đã đến để khiến cho sự thờ phượng tại đó trở thành lỗi thời không cần thiết, vì thế chẳng bao giờ Ngài lại gợi ý là sẽ xây lại đền thờ.
Bây giờ chúng ta quay sang Maccô. Như thường lệ chúng ta thấy một câu nhỏ thêm vào có tính cách gợi ý và soi sáng trong tường thuật của Maccô. Theo Maccô kể thì lời tố cáo Chúa Giêsu là: “Ta sẽ phá đền thờ này bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, Ta sẽ cất một đền thờ khác không bởi tay người ta cất” (Mc 14,58). Rõ ràng, điều Chúa muốn nói là Ngài đến để chấm dứt tất cả những gì do tay người ta làm ra, cách thức thờ phượng Chúa do người ta sắp xếp, để đưa vào sự thờ phượng thiêng liêng. Ngài đã kết thúc mọi việc dâng của lễ bằng súc vật và lễ nghi do các thầy tế lễ chủ trì, thay vào đó bằng việc trực tiếp đưa tâm linh người ta đến gần Thánh Linh của Chúa mà không cần các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật. Lời xác nhận của Chúa Giêsu là: “Sự thờ phượng tại Đền Thờ, các nghi lễ rườm rà, vô vàn lễ vật của các ngươi phải chấm dứt, bởi vì Ta đã đến”. Lời hứa tiếp theo của Chúa là: “Ta sẽ mở cho các ngươi một con đường đến với Thiên Chúa mà không cần các nghi lễ tỉ mỉ đó nữa. Ta đã đến để phá hủy Đền Thờ Giêrusalem, khiến cả trái đất này thành một ngôi đền thờ, ở đó loài người có thể đến gần và biết có sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống”.
Người Do Thái đã thấy việc đó. Năm 19 TC, vua Hêrôđê đã bắt đầu xây dựng ngôi đền thờ vĩ đại ấy. Nhưng đến năm 64 SC việc xây dựng mới xong. Từ ngày khởi công đến lúc bấy giờ là 46 năm, còn hai mươi năm nữa mới hoàn thành. Chúa Giêsu khiến người Do Thái phẫn nộ khi bảo rằng tất cả những huy hoàng tráng lệ, tiền bạc kỹ thuật mà người ta đã đổ vào công trình ấy hoàn toàn vô ích, và Ngài đã đến để chỉ cho người ta một con đường đến với Đức Chúa Trời mà không cần một đền thờ nào cả.
Đây là điều thực sự Chúa Giêsu đã nói. Những năm sau đó Gioan còn nghiệm thấy thêm nhiều điều trong những lời Chúa Giêsu nói. Ông thấy đó là một lời tiên tri về sự Phục Sinh, và Gioan đã đúng. Ông đã thấy đúng, vì cả thế gian này không thể trở thành ngôi đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, cho đến khi Chúa Giêsu lìa bỏ thân xác trần gian hiện diện khắp nơi, ở với mọi người, mọi chỗ, cho đến tận cùng trái đất.
Chính sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và hằng sống đã khiến cả thế gian trở thành đền thờ của Thiên Chúa. Cho nên khi các môn đệ gẫm lại, họ mới hiểu đó là lời hứa về sự Phục Sinh. Lúc ấy họ không thể hiểu được, nhưng sau khi chính họ kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Hằng Sống, họ mới thấy được ý nghĩa sâu nhiệm của những gì Chúa Giêsu đã nói.
Cuối cùng Gioan bảo: “thì (họ) tin Kinh Thánh”; Kinh Thánh nào đây? Ông muốn nói đến câu Kinh Thánh vẫn ám ảnh Hội Thánh sơ khai: “Chúa không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát” (Tv 16,10). Đó là câu Phêrô đã trích dẫn vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,31); Phaolô đã trích dẫn tại Antiokia (Cv 13,35). Câu Kinh Thánh đó diễn tả lòng tin của Hội Thánh vào quyền năng của Thiên Chúa và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Tại điểm này chúng ta được đưa vào chân lý, chúng ta được tiếp xúc với Chúa, ra mắt Ngài, đến gần Ngài, không tùy thuộc vào bất cứ điều gì do bàn tay và trí tuệ con người làm ra. Ngoài đường phố, ở trong nhà, lúc làm việc, khi ở trên núi, trên đường dài vắng vẻ hay trong nhà thờ, chúng ta đều có đền thờ nội tâm, có sự hiện diện vĩnh viễn của Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài vẫn ở với chúng ta khắp mọi nơi.
ĐẤNG DÒ XÉT LÒNG NGƯỜI (Ga 2,23-25)
Gioan không thuật lại các phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua ấy. Nhưng nhiều người sau khi thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Ngài. Vấn đề Gioan đặt ra ở đây là: Nếu đã có nhiều người tin Ngài tại Giêrusalem ngay từ buổi đầu, tại sao Chúa Giêsu không ở lại đó, dựng cờ lên để tự xưng là Đấng Mêsia, công khai tuyên bố mình là ai?
Câu trả lời là, Chúa Giêsu vốn biết rõ tâm địa con người. Ngài biết rõ, đối với nhiều người Ngài chỉ là một hiện tượng lạ chóng qua. Ngài biết có nhiều người chỉ bị lôi cuốn bởi những việc lạ lùng Ngài làm. Ngài đã biết rõ chẳng có ai thấu hiểu con đường Ngài đã chọn. Ngài biết nhiều kẻ chỉ theo Ngài vì phép lạ, dấu kỳ, nhưng khi Ngài bắt đầu nói với họ về phục vụ, từ bỏ mình, tuân phục ý Chúa, về thập giá và việc vác thập giá, chắc chắn họ sẽ trố mắt nhìn Ngài mà chẳng hiểu gì cả, sẽ bỏ Ngài ngay.
Một đặc điểm quan trọng của Chúa Giêsu là Ngài không muốn những ai theo Ngài mà chưa hiểu biết thật rõ ràng, và dứt khoát chấp nhận trả giá. Ngài khước từ việc nắm lấy cơ hội nổi tiếng trong chốc lát. Nếu Ngài tự phó mình cho đám quần chúng tại Giêrusalem, chắc họ tôn Ngài là Đấng Mêsia ngay tức khắc, để sau đó họ trông mong vào những hành động vật chất trần gian Đấng Mêsia thực hiện. Nhưng Chúa Giêsu không yêu cầu người ta thừa nhận Ngài, cho đến khi họ biết rõ tiếp nhận Ngài có ý nghĩa gì. Ngài đòi hỏi mỗi người phải nhận biết điều Ngài đang làm.
Chúa Giêsu biết rõ bản chất, tấm lòng bất định, dễ đổi thay của loài người. Ngài biết rõ con người có thể bị bốc đồng, bị lôi cuốn trong những khoảnh khắc xúc động mạnh, nhưng lại rút lui sau khi thấy rõ những gì phải trả giá. Ngài biết bản chất con người thèm những kích động tình cảm. Ngài không muốn đám đông hoàn toàn chẳng biết gì cả mà cứ tung hô, Ngài chỉ cần một số ít người biết rõ mình đang làm gì, và sẵn sàng theo Ngài cho đến cùng.
Có một điều cần chú ý trong đoạn này, vì chúng ta còn nhiều lần lặp lại. Khi Gioan đề cập đến những phép lạ của Chúa Giêsu, ông gọi đó là những dấu lạ. Tân Ước dùng ba từ khác nhau chỉ các công việc lạ lùng của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu, mỗi từ cho chúng ta biết một phần về ý nghĩa và bản chất của phép lạ.
1) Chữ Teras chỉ có nghĩa là một cái gì đó lạ lùng, đáng ngạc nhiên, kỳ lạ. Chữ này không bao hàm một ý nghĩa đạo đức nào cả. Một trò lừa đảo bằng phù phép có thể là một teras, nó chỉ là một điều xảy ra khác lạ khiến người ta phải ngạc nhiên. Tân Ước không dùng chữ này một mình để chỉ các công việc của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.
2) Chữ Dunamis theo nghĩa đen là năng lực, do từ này mà có chữ cốt mìn (dynamite). Nó có thể được dùng để chỉ bất cứ một năng lực khác thường nào, hoặc chỉ sức tăng cường, các năng lực thiên nhiên, năng lực của một thứ thuốc, năng lực của một người có tài. Nó luôn luôn có nghĩa là một năng lực hữu hiệu để làm việc mà ai cũng nhìn nhận.
3) Chữ Semeion có nghĩa là một dấu hiệu (sign). Đây là chữ mà Gioan thích dùng. Theo ông, phép lạ không chỉ là một việc xảy ra kinh ngạc, một việc làm bởi quyền năng và là một dấu hiệu; nghĩa là nó cho người ta biết về người đã làm việc lạ ấy, phô bày một điều gì đó về tính tình, bản chất của người ấy, đó là một hành động mà qua đó người ta có thể biết rõ hơn, đầy đủ hơn về phẩm cách của người đã hành động. Với Gioan, điều tối quan trọng trong các phép lạ của Chúa Giêsu là bày ra cho người ta biết về bản chất và phẩm cách của Thiên Chúa. Quyền phép Chúa Giêsu đã được sử dụng để chữa kẻ bệnh, cho kẻ đói được ăn, an ủi kẻ gặp bối rối; chính sự kiện Chúa dùng quyền phép mình như thế, là bằng chứng Chúa quan tâm đến sầu khổ, thiếu thốn và đau đớn của con người. Với Gioan thì các phép lạ là các dấu hiệu bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa.
Vậy, trong bất cứ phép lạ nào cũng có ba điều: có điều lạ làm cho người ta bàng hoàng, sững sờ, kinh ngạc. Có phần quyền năng hoạt động hữu hiệu đối phó và hàn gắn thân thể bị thương tật, tâm trí bị rối loạn, tấm lòng tan nát, một quyền năng có thể làm mọi việc. Có phần dấu hiệu bày tỏ tình yêu và tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng đã làm những việc như thế cho loài người.

 

52. Giữ các giới răn

Lần kia, có một người đàn ông rất thành thật ước ao sống một cuộc sống thánh thiện. Vì thế, anh ta đến gặp vị thầy của mình, để xin được khuyên bảo. Vị thầy này khen ngợi anh ta về ước vọng của anh, rồi hỏi “Tình hình của con tiến triển đến đâu rồi?”.
Người đàn ông đó trả lời “Con nghĩ rằng khá tốt”.
Vị thầy hỏi “Khi con nói rằng tốt, thì ý con muốn nói gì?”
Người đàn ông trả lời “Con không hề vi phạm bất cứ giới răn nào. Con đã không kêu tên Chúa vô cớ. Con không hề xâm phạm vào ngày Sabát. Con không bất kính đối với cha hoặc mẹ con. Con không hề giết bất cứ người nào. Con không thiếu lòng trung thành đối với vợ con. Con không hề ăn cắp. Con không làm chứng dối chống lại bất cứ ai. Và con đã không muốn chiếm đoạt vợ của người khác hoặc tài sản của họ.
Vị thầy nói “Thầy biết. Như vậy, con không hề lỗi phạm bất cứ giới răn nào”.
Người đàn ông trả lời một cách tự hào “Dạ đúng ạ.
Vị thầy hỏi “Nhưng con đã giữ các giới răn chưa?”.
Người đàn ông nói “Ý thầy muốn nói gì ạ?”.
“Thầy muốn nói rằng con đã tôn kính thánh danh của Thiên Chúa chưa? Con có giữ ngày Sabát không? Con có yêu thương và kính trọng cha mẹ con không? Con có tìm kiếm cách bảo vệ gìn giữ cuộc sống của con không? Lần cuối cùng con nói với vợ con rằng con yêu thương cô ấy là vào lúc nào? Con có biết chia sẻ tài sản của con cho người nghèo không? Con có biết bảo vệ danh tiếng cho người khác không? Lần cuối cùng con từ chối không giúp đỡ người đồng loại là lúc nào?”.
Người đàn ông đó rút lui. Nhưng theo lòng tin của mình, anh ta ra đi và suy nghĩ về những điều vị thầy đã nói. Anh nhận ra rằng cho đến nay, anh chỉ mới có ý định tránh làm điều sai trái mà thôi. Thật đáng ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đây là một tiêu chuẩn nhân đức cao nhất. Nhưng vị thầy đã đưa ra cho anh ta một cái nhìn mới về lòng nhân ái không chỉ là tránh làm điều ác, mà còn phải cư xử tốt nữa. Cho đến nay, anh đã có một quan niệm tiêu cực về lòng nhân ái. Bây giờ, thầy đã cho anh thấy một khái niệm tích cực về lòng nhân ái. Thầy đem đến cho anh một phạm vi mới mẻ và tốt đẹp hơn để hướng dẫn anh, một đường lối mới và nhiều thách đố hơn để anh đi theo.
Chúng ta phải cẩn thận để không phạm phải cùng một lỗi lầm như người đàn ông đó. Chúng ta không được tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tiêu cực, bởi vì điều này đưa đến việc chỉ thực hiện các giới răn ở mức vừa đủ tối thiểu. Nhưng chúng ta phải tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tích cực.
Và chúng ta còn phải giữ các giới răn trong tinh thần ngay chính nữa. Sự vâng phục của chúng ta không được phát xuất từ động cơ là nỗi sợ hãi, mà là tình yêu. Chúng ta không giữ các giới răn để sao cho Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta, mà giữ các giới răn chính bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Đức Giêsu đưa ra một giới luật mới mẻ và chính xác hơn – giới luật yêu thương. Giới luật này không mâu thuẫn hoặc hủy bỏ giới luật cũ, mà vượt lên trên, để rồi đưa đến việc kiện toàn giới luật cũ. Người nói rằng tất cả những giới luật của Thiên Chúa có thể được rút lại thành hai giới răn: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người đồng loại. Trên thực tế, chỉ có một giới luật mà thôi – giới luật yêu thương.

 

53. Người bị kết án tử hình

Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.' "
Phúc Âm thêm rằng mọi người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà, từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình và cộng đoàn của chúng con.

 

54. Mười điều răn mới

Mục đích giới luật của Thiên Chúa không phải là để hạn chế chúng ta, nhưng là để chỉ cho chúng ta phương cách sống. Giới luật của Thiên Chúa chính là ánh sáng cho những bước chân của chúng ta, và là ngọn đèn soi chiếu đường đi cho chúng ta. Mười điều răn của Người rất tốt đẹp. Nhưng lời giảng dậy của Đức Kitô còn đi xa hơn nhiều. Kẻ nào hài lòng với giới luật cũ, thì cũng giống như một người vẫn cứ bước đi bằng ngọn nến, sau khi đã có đèn điện rồi vậy.
Trong phần sau đây, chúng ta nhìn vào mười điều răn dưới ánh sáng lời giảng dạy của Đức Kitô (Có thể sử dụng hai giọng nói):
Cũ: Hãy nghe đây, hỡi nhà Israel! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai cập, ra khỏi nơi chốn nô lệ.
Mới: Hãy nghe đây, hỡi những người đi theo Đức Kitô, dân tộc mới của Thiên Chúa! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Đấng đã đưa các con ra khỏi cảnh tối tăm, để đi vào ánh sáng. Các con có thể nhìn thấy những hiệu quả của ánh sáng nơi lòng nhân ái, lối sống ngay thẳng và theo lẽ phải.
Các con đã từng nô lệ cho tội lỗi và những hành động sai trái. Hiện nay, các con phải sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Cũ: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được có vị thần nào đi trước Ta.
Mới: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Ta không phải là một Thiên Chúa xa lạ và xa cách các con. Ta là bạn bè và người cố vấn của các con. Hãy coi chừng các vị thần, họ sẽ phản bội các con. Tiền bạc là một loại thần phổ biến nhất. Các con không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc được.
Cũ: Các ngươi không được kêu tên Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, một cách vô cớ.
Mới: Kể từ bây giờ, Ta muốn các con gọi Ta bằng một tên mới. Hãy gọi Ta là Cha. Hãy gọi tên đó không phải trong sự sợ hãi, mà bằng tình yêu. Hãy cầu khẩn danh xưng đó trong sự ca ngợi, biết ơn, cũng như hãy cho Ta biết những nhu cầu của các con. Tên của các con đều được viết trong lòng bàn tay Ta.
Cũ: Các ngươi hãy nhớ giữ ngày sabát.
Mới: Các con hãy ghi nhớ rằng tất cả mọi ngày đều thuộc về Thiên Chúa, và hãy sống thánh thiện. Nhưng hãy dành ngày đầu tiên trong tuần, ngày Chúa nhật, làm một ngày đặc biệt. Đây là một ngày mà Đức Giêsu, người Anh Cả của các con, đã bẻ gãy xiềng xích của sự chết và sống lại vinh quang từ hầm mộ. Ngày này nhắc nhở các con rằng các con là một dân tộc đang hành hương tiến về miền đất hứa của sự sống đời đời. Sự an bình và thư giãn của ngày Sabát là điều dự báo trước về niềm vui sắp đến.
Cũ: Các ngươi hãy kính trọng cha mẹ.
Mới: Các con hãy yêu thương cha mẹ, đó là những tâm hồn quí giá mà nhờ có họ, các con được mời gọi vào bữa tiệc của sự sống. Các con hãy giúp đỡ cha mẹ khi họ cô độc. Hãy an ủi cha mẹ khi họ đau yếu. Hãy săn sóc cha mẹ khi họ già cả và yếu đuối.
Cũ: Các ngươi chớ giết người.
Mới: Các con không được gây đau khổ cho người khác bằng bất cứ cách nào. Hãy thương xót như Cha các con là Đấng thương xót. Đừng phê phán ai, và các con sẽ không bị phê phán. Đừng kết án ai, và các con sẽ không bị kết án. Hãy yêu thương kẻ thù. Hãy cư xử tốt với những người ghét các con. Hãy chúc phúc cho những người nguyền rủa các con. Hãy cầu nguyện cho những người nói điều ác chống lại các con. Từ đó, các con sẽ chứng tỏ rằng các con chính là những con cái của Thiên Chúa.
Cũ: Các ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
Mới: Các con hãy yêu thương người bạn đời của các con, như thể đó là một nửa của các con. Sự trung thành về thể lý là điều vĩ đại, nhưng sự trung thành trong tâm hồn lại còn tốt đẹp hơn nữa.
Cũ: Các ngươi chớ lấy của người.
Mới: Có nhiều cách thức ăn cắp. Nếu các con chất đống và tích trữ những của cải mà các con không cần đến, trong khi đồng loại của các con lại đang cần đến – đó là một hình thức ăn cắp. Những tài sản trên trái đất này đều được dành cho tất cả những con cái của Thiên Chúa. Như vậy, Ta nói với các con: hãy đem của cải cho người nào đang cần đến, hãy chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói khát, hãy cho kẻ rách rưới ăn mặc, hãy mở lòng ra cho những người cô đơn và không có nhà, và ánh sáng của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa trên các con.
Cũ: Các ngươi chớ làm chứng dối. Mới: Các con hãy trở nên ánh sáng cho người đồng loại, chứ không phải là nguồn tối tăm. Hãy dùng những lời lẽ để xây dựng, nâng đỡ và an ủi người đồng loại. Nếu các con không thể tìm được điều gì tốt đẹp để nói về người đồng loại, thì hãy giữ im lặng.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn vợ người khác. Mới: Các con vẫn có thể phạm tội ngoại tình trong tư tưởng và lòng ao ước, cũng như trong hành động. Tội ngoại tình ở trong tâm hồn trong ước muốn chiếm đoạt người khác. Do đó, các con hãy phấn đấu giữ tâm hồn thanh sạch.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn tài sản của người khác. Mới: Ta nói với các con: đừng thèm muốn bất cứ tài sản nào. Đừng tích trữ kho tàng trên trái đất này. Nói đúng hơn, các con hãy phấn đấu để làm cho bản thân mình được trở nên phong phú dưới mắt Thiên Chúa. Nếu các con thèm muốn bất cứ điều gì nơi người đồng loại, thì hãy thèm muốn sự ân cần trong tâm hồn và cách cư xử tử tế. Kết luận: Hãy tuân theo các giới răn, không phải vì sợ hãi, mà vì lòng yêu mến. Và nếu bạn nhận thấy mười điều răn là quá nhiều, không nhớ được, thì bạn có thể rút gọn thành hai giới răn: Yêu mến Chúa hết linh hồn hết trí khôn, và yêu mến người đồng loại như chính bản thân mình.

 

55. Chúa Nhật 3 Mùa Chay

VÌ THƯƠNG, THIÊN CHÚA DẠY CHÚNG TA
MỘT CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN
"Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Ga 2,17)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Xh 20,1-17): Khôn ngoan là sống theo các giới luật của Thiên Chúa.
- Bài Tin Mừng (Ga 2,13-25): Đức Giêsu làm gương sống khôn ngoan: nhiệt thành với Thiên Chúa đến nỗi dám làm những việc có thể nguy hiểm đến mạng sống mình (như thanh tẩy đền thờ Giêrusalem).
- Bài đọc II (1 Cr 2,13-25): Người đời khó mà hiểu được sự khôn ngoan ấy. Vì thế thập giá bị người do thái coi là vấp phạm và người hy lạp cho là điên rồ.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
- Thập giá Đức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
- Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Đáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện ; b/ rất hữu ích cho cuộc sống ; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Đền thờ Giêrusalem. Đối với thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Đức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Đức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
4. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người do thái và là sự điên rồ đối với người hy lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Ngài thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật".
Chính Đức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Đức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Đền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
- Không có tình yêu, ta không thể sống
 Không có đau khổ, ta không thể yêu
 Phải học yêu để sống tốt hơn
 Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
- Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời ; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
- Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
- Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
- Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người do thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Đúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người do thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý:
- Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
- Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Đức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Đền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Đền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Đức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Đức Giêsu và Thánh Phaolô?
6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Độ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Đức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ. Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Đồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Đức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Đức Giêsu, Đấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Đấng Phục sinh. Người chính là Đền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
***
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Đền Thờ mới là Đức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em,
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Đền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Đền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha chúng ta. Vì thương yêu, Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta một con đường khôn ngoan mà những kẻ thông thái nhất của thế gian cũng không thể nghĩ ra. Trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta hãy thân thưa với Ngài.
- Trước lúc rước lễ: Thân xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng đền thờ này đã bị dơ bẩn vì tội lỗi. Chúng ta hãy thành tâm sám hối, xin Chúa thanh tẩy để xứng đáng cho Chúa ngự vào. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…"
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã dạy cho chúng ta biết rằng lề luật Chúa chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc đích thực. Anh chị em hãy ra về và sống theo luật Chúa. Chúc anh chị em được bình an.

 

56. Tẩy uế đền thờ

"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập79
  • Máy chủ tìm kiếm26
  • Khách viếng thăm53
  • Hôm nay12,865
  • Tháng hiện tại604,173
  • Tổng lượt truy cập46,288,209

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây